[ { "instruction": "I need these sentences to be translated into Vietnamese.", "input": "The Nellie, a cruising yawl, swung to her anchor without a flutter of the sails, and was at rest. The flood had made, the wind was nearly calm, and being bound down the river, the only thing for it was to come to and wait for the turn of the tide.\n\nThe sea-reach of the Thames stretched before us like the beginning of an interminable waterway. In the offing the sea and the sky were welded together without a joint, and in the luminous space the tanned sails of the barges drifting up with the tide seemed to stand still in red clusters of canvas sharply peaked, with gleams of varnished sprits. A haze rested on the low shores that ran out to sea in vanishing flatness. The air was dark above Gravesend, and farther back still seemed condensed into a mournful gloom, brooding motionless over the biggest, and the greatest, town on earth.\n\nThe Director of Companies was our captain and our host. We four affectionately watched his back as he stood in the bows looking to seaward. On the whole river there was nothing that looked half so nautical. He resembled a pilot, which to a seaman is trustworthiness personified. It was difficult to realize his work was not out there in the luminous estuary, but behind him, within the brooding gloom.", "output": "Nellie, chiếc thuyền hai buồm, buông neo không một tiếng buồm lật phật, lặng lẽ nghỉ ngơi. Nước đã xuống, gió cơ hồ đã lặng; được buộc dưới sông, nó chỉ còn một việc là đậu đó đợi triều lên.\n\nCửa sông Thames trải dài trước mắt chúng tôi, như khởi đầu của một thủy lộ dài bất tận. Ngoài khơi xa biển và trời liền thành một tấm áo không thấy đường may, và trong không gian lung linh này, những cánh buồm rám nắng vẫn dập dờn trên ngọn thủy triều như đứng yên thành từng cụm vải bạt đỏ chóp nhọn, lấp lánh ánh vécni từ những cột buồm. Sương lan trên những bãi bồi phẳng lì chạy dài tít tắp về phía biển. Bầu trời trên Gravesend tăm tối, còn phía xa dường như vẫn ngưng tụ thành một quầng u ám thảm sầu, âm trầm bất động trùm lên đô thành lớn nhất và vĩ đại nhất trên trái đất.\n\nTay Giám đốc Công ty là thuyền trưởng và chủ nhà của chúng tôi. Bốn người bọn tôi trìu mến nhìn bóng lưng gã đứng trên mũi thuyền, nhìn về phía biển. Cả sông không có hình ảnh nào đại dương bằng nửa gã. Nhìn gã như một hoa tiêu, niềm tin của người đi biển được nhân cách hóa. Khó mà nhận ra, nghề của gã không phải ngoài kia, nơi giang khẩu lung linh, mà ở sau lưng, giữa vùng âm trầm u ám nọ.\n\n" }, { "instruction": "Can you render these English sentences in Vietnamese, please?", "input": "Between us there was, as I have already said somewhere, the bond of the sea. Besides holding our hearts together through long periods of separation, it had the effect of making us tolerant of each other’s yarns—and even convictions. The Lawyer—the best of old fellows—had, because of his many years and many virtues, the only cushion on deck, and was lying on the only rug. The Accountant had brought out already a box of dominoes, and was toying architecturally with the bones. Marlow sat cross-legged right aft, leaning against the mizzen-mast. He had sunken cheeks, a yellow complexion, a straight back, an ascetic aspect, and, with his arms dropped, the palms of hands outwards, resembled an idol. The director, satisfied the anchor had good hold, made his way aft and sat down amongst us. We exchanged a few words lazily. Afterwards there was silence on board the yacht. For some reason or other we did not begin that game of dominoes. We felt meditative, and fit for nothing but placid staring. The day was ending in a serenity of still and exquisite brilliance. The water shone pacifically; the sky, without a speck, was a benign immensity of unstained light; the very mist on the Essex marsh was like a gauzy and radiant fabric, hung from the wooded rises inland, and draping the low shores in diaphanous folds. Only the gloom to the west, brooding over the upper reaches, became more sombre every minute, as if angered by the approach of the sun.", "output": "Giữa chúng tôi, như đã có lần tôi từng nói, có sự gắn bó của biển khơi. Ngoài việc neo đậu lòng nhau sau những quãng dài xa cách, nó còn giúp chúng tôi chịu đựng được những huyên thuyên, thậm chí là định kiến, của nhau. Tay Luật sư - loại bạn già chơi rất được - bởi tuổi cao đức trọng nhất hội, sở hữu cái đệm duy nhất trên boong, và nằm trên tấm thảm duy nhất. Tay Kế toán ôm theo hộp domino và đang lẩn mẩn xây nhà với những mảnh ngà. Marlow ngồi xếp bằng ở đuôi tàu, lưng dựa vào cột buồm lái. Má hóp, da vàng, lưng thẳng, dung mạo khắc khổ, đôi tay buông xuôi, lòng bàn tay ngửa ra trước, gã nhìn như một bức ngẫu tượng. Tay giám đốc, yên tâm là neo đã chắc, xuống đuôi tàu nhập bọn với chúng tôi. Cả bọn uể oải trò chuyện đôi lời. Rồi boong tàu chìm trong im lặng. Bởi lẽ gì đó, chúng tôi không bắt đầu ván domino ấy. Chúng tôi thấy trầm tư, chẳng có hứng làm gì ngoài tĩnh tâm quan sát. Ngày tàn dần trong cái bình lặng của ánh quang huy thanh tĩnh và tú lệ. Nước tỏa sáng một cách bình yên; vòm trời, không một gợn mây, như một khoảng mênh mông ôn nhuận ngập tràn thứ ánh sáng vô nhiễm; màn sương trên đầm lầy miền Essex giống một tấm sa mỏng phát quang, rủ xuống từ những triền cao cây phủ trong nội địa, buông từng lớp trong mờ lên những bãi bồi. Chỉ riêng vùng ảm đạm phía tầy, vần vũ trên thượng lưu, là mỗi lúc một thêm u ám, như thể phẫn nộ trước sự lấn tới của mặt trời." }, { "instruction": "Could you translate these sentences from English to Vietnamese?", "input": "And at last, in its curved and imperceptible fall, the sun sank low, and from glowing white changed to a dull red without rays and without heat, as if about to go out suddenly, stricken to death by the touch of that gloom brooding over a crowd of men.\n\nForthwith a change came over the waters, and the serenity became less brilliant but more profound. The old river in its broad reach rested unruffled at the decline of day, after ages of good service done to the race that peopled its banks, spread out in the tranquil dignity of a waterway leading to the uttermost ends of the earth. We looked at the venerable stream not in the vivid flush of a short day that comes and departs for ever, but in the august light of abiding memories. And indeed nothing is easier for a man who has, as the phrase goes, ‘followed the sea’ with reverence and affection, that to evoke the great spirit of the past upon the lower reaches of the Thames. The tidal current runs to and fro in its unceasing service, crowded with memories of men and ships it had borne to the rest of home or to the battles of the sea. It had known and served all the men of whom the nation is proud, from Sir Francis Drake to Sir John Franklin, knights all, titled and untitled—the great knights-errant of the sea. It had borne all the ships whose names are like jewels flashing in the night of time, from the GOLDEN HIND returning with her rotund flanks full of treasure, to be visited by the Queen’s Highness and thus pass out of the gigantic tale, to the EREBUS and TERROR, bound on other conquests— and that never returned. It had known the ships and the men. They had sailed from Deptford, from Greenwich, from Erith— the adventurers and the settlers; kings’ ships and the ships of men on ‘Change; captains, admirals, the dark ‘interlopers’ of the Eastern trade, and the commissioned ‘generals’ of East India fleets. Hunters for gold or pursuers of fame, they all had gone out on that stream, bearing the sword, and often the torch, messengers of the might within the land, bearers of a spark from the sacred fire. What greatness had not floated on the ebb of that river into the mystery of an unknown earth! … The dreams of men, the seed of commonwealths, the germs of empires.", "output": "Và cuối cùng, trong một đường lặn hình cung không thể cảm nhận được, mặt trời chìm dần, và từ màu trắng rực đổi sang sắc đỏ đục không phát quang và tỏa nhiệt, như thể sắp đột ngột tắt lịm, bị hạ sát khi chạm phải quầng u ám đang vần vũ trên một vùng người.\n\nLập tức mặt nước bắt đầu thay đổi, và vẻ bình lặng kia bớt xán lạn nhưng lại nồng đậm hơn. Con sông lâu đời an tĩnh nghỉ ngơi giữa dòng nước mênh mang lúc ngày tàn, sau bao thuở phục vụ đắc lực chủng tộc định cư hai bên bờ, trải rộng trong vẻ tôn nghiêm bình đạm của một thủy lộ dẫn đến những chốn tận cùng trái đất. Bọn tôi quan sát dòng chảy khả kính này, không phải dưới hồng quang rực rỡ của một ngày ngắn ngủi một đến rồi đi không trở lại, mà trong ánh sáng uy nghi của ký ức trường tồn. Và quả thực, với kẻ từng, như người ta vẫn nói, “đi theo tiếng gọi biển khơi” với niềm đam mê và sùng kính, không gì dễ dàng hơn việc triệu hoán những anh linh quá khứ trên hạ lưu sông Thames. Con nước thủy triều vẫn miệt mài, tận tụy xuống lên, tràn ngập ký ức về người và thuyền từng được nó đưa về lại cố hương hoặc đem vào hải chiến. Nó từng quen biết và phục vụ tất cả những con người mà dân tộc này hằng tự hào, từ Sir Francis Drake tới Sir John Franklin, đều là Hiệp sĩ, có tước hiệu và không tước hiệu - những hiệp khách giang hồ của biển cả. Nó từng vận chuyển những con tàu với cái tên lấp lánh như ngọc trong đêm tối thời gian, từ chiếc Golden Hind trở về với hai mạn tròn chất đầy châu báu và được ngự giá Nữ hoàng đến thăm, rồi từ ấy rời xa dòng chảy huyền thoại này, đến chiếc Erebus và Terror, theo đuổi những cuộc chinh phục khác - và không bao giờ quay lại. Nó biết rõ cả hải thuyền và hải khách. Họ giong buồm từ Deptford, Greenwich và Erith - kẻ phiêu lưu lẫn người lập nghiệp; tàu Hoàng gia cùng thuyền thương khách; thuyền trưởng, đô đốc, đám hắc thương vùng Viễn Đông, các “tướng lĩnh tự phong của Hải đội Đông Ấn. Săn vàng hay cầu danh, ai nấy đều khởi hành theo dòng chảy ấy, mang gươm, và thường là cầm đuốc, sứ giả của quyền uy từ lục địa, hộ tống một điểm tinh hỏa từ ngọn lửa thiêng. Có sự vĩ đại nào không từng theo con nước của dòng sông ấy đến với bí ẩn của một miền đất lạ!... Giấc mơ của con người, hạt giống của thịnh vượng chung, mầm mống của đế quốc." }, { "instruction": "Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?", "input": "The sun set; the dusk fell on the stream, and lights began to appear along the shore. The Chapman light-house, a three-legged thing erect on a mud-flat, shone strongly. Lights of ships moved in the fairway—a great stir of lights going up and going down. And farther west on the upper reaches the place of the monstrous town was still marked ominously on the sky, a brooding gloom in sunshine, a lurid glare under the stars.\n\n‘And this also,’ said Marlow suddenly, ‘has been one of the dark places of the earth.’\n\nHe was the only man of us who still ‘followed the sea.’ The worst that could be said of him was that he did not represent his class. He was a seaman, but he was a wanderer, too, while most seamen lead, if one may so express it, a sedentary life. Their minds are of the stay-at-home order, and their home is always with them—the ship; and so is their country—the sea. One ship is very much like another, and the sea is always the same. In the immutability of their surroundings the foreign shores, the foreign faces, the changing immensity of life, glide past, veiled not by a sense of mystery but by a slightly disdainful ignorance; for there is nothing mysterious to a seaman unless it be the sea itself, which is the mistress of his existence and as inscrutable as Destiny. For the rest, after his hours of work, a casual stroll or a casual spree on shore suffices to unfold for him the secret of a whole continent, and generally he finds the secret not worth knowing. The yarns of seamen have a direct simplicity, the whole meaning of which lies within the shell of a cracked nut. But Marlow was not typical (if his propensity to spin yarns be excepted), and to him the meaning of an episode was not inside like a kernel but outside, enveloping the tale which brought it out only as a glow brings out a haze, in the likeness of one of these misty halos that sometimes are made visible by the spectral illumination of moonshine.", "output": "Mặt trời lặn; hoàng hôn trùm lên dòng sông, và ánh đèn bắt đầu xuất hiện ven bờ. Hải đăng Chapman, một vật thể ba chân mọc lên từ bãi lầy, chiếu sáng rực rỡ. Ánh đèn từ những con tàu di chuyển trên thủy đạo - một dòng ngược xuôi tấp nập của những ngọn đèn. Và xa hơn về tây, trên thượng lưu, vùng trời phía trên thành phố khổng lồ kia vẫn mang dấu hiệu bất tường, một vầng âm trầm u ám trong ánh tịch dương, một tia nhìn giận dữ chói gắt dưới trời sao.\n\n“Nơi đây,” Marlow đột ngột lên tiếng, “cũng từng là một trong những chốn tối tăm trên trái đất.”\n\nGã là người duy nhất trong cả hội còn “đi theo tiếng gọi biển khơi.” Nếu có nói xấu được gã điểm gì thì đó là gã không đại diện cho tầng lớp của mình. Gã là hải khách nhưng cũng là lãng khách, trong khi phần lớn những người đi biển khác sống một cuộc đời, ta tạm gọi là, yên vị. Đầu óc họ mang tâm thức tại gia, và nhà của họ luôn đi cùng họ - con tàu; và tổ quốc của họ cũng vậy - biển cả. Tàu nào cũng giống tàu nào, và biển cả thì muôn đời vẫn thế. Trong sự bất biến của môi trường quanh họ, những duyên hải xa xôi, những mặt người xứ lạ, những bao la biến động của cuộc đời, tất cả lướt qua, được che phủ không phải bởi cảm giác huyền bí mà dưới một thái độ vô tri ít nhiều khinh thị; bởi đối với người đi biển, chẳng có gì huyền bí trừ bản thân biển cả, người tình của sự hiện tồn của y, và khó nhìn thấu như chính số mệnh. Với họ, sau giờ lao động, một cuộc dạo chơi hoặc truy hoan tùy tiện trên bờ là đủ khám phá bí mật của cả một lục địa, và nhìn chung họ thấy bí mật này chả có gì đáng biết. Chuyện của dân đi biển có một sự giản đơn trực diện, toàn bộ ý nghĩa của nó chỉ gói gọn trong một cái vỏ lạc vỡ. Nhưng Marlow không phải dân đi biển điển hình (không kể xu hướng huyên thuyên ở gã), và với gã, ý nghĩa của sự kiện không nằm trong hạt lạc, mà ở ngoài, bao quanh sự tích phát sinh ra nó giống như nguồn sáng nhiệt phát sinh hồng quang, tương tự như những quầng sáng đôi khi ta vẫn quan sát thấy nhờ quang phổ của ánh trăng." }, { "instruction": "I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.", "input": "He broke off. Flames glided in the river, small green flames, red flames, white flames, pursuing, overtaking, joining, crossing each other— then separating slowly or hastily. The traffic of the great city went on in the deepening night upon the sleepless river. We looked on, waiting patiently—there was nothing else to do till the end of the flood; but it was only after a long silence, when he said, in a hesitating voice, ‘I suppose you fellows remember I did once turn fresh-water sailor for a bit,’ that we knew we were fated, before the ebb began to run, to hear about one of Marlow’s inconclusive experiences.\n\n‘I don’t want to bother you much with what happened to me personally,’ he began, showing in this remark the weakness of many tellers of tales who seem so often unaware of what their audience would like best to hear; ‘yet to understand the effect of it on me you ought to know how I got out there, what I saw, how I went up that river to the place where I first met the poor chap. It was the farthest point of navigation and the culminating point of my experience. It seemed somehow to throw a kind of light on everything about me— and into my thoughts. It was sombre enough, too—and pitiful— not extraordinary in any way—not very clear either. No, not very clear. And yet it seemed to throw a kind of light.\n\n‘I had then, as you remember, just returned to London after a lot of Indian Ocean, Pacific, China Seas—a regular dose of the East—six years or so, and I was loafing about, hindering you fellows in your work and invading your homes, just as though I had got a heavenly mission to civilize you. It was very fine for a time, but after a bit I did get tired of resting. Then I began to look for a ship—I should think the hardest work on earth. But the ships wouldn’t even look at me. And I got tired of that game, too.\n\n‘Now when I was a little chap I had a passion for maps. I would look for hours at South America, or Africa, or Australia, and lose myself in all the glories of exploration. At that time there were many blank spaces on the earth, and when I saw one that looked particularly inviting on a map (but they all look that) I would put my finger on it and say, ‘When I grow up I will go there.’ The North Pole was one of these places, I remember. Well, I haven’t been there yet, and shall not try now. The glamour’s off. Other places were scattered about the hemispheres. I have been in some of them, and … well, we won’t talk about that. But there was one yet—the biggest, the most blank, so to speak— that I had a hankering after.", "output": "Gã dứt lời. Những ngọn lửa lướt đi trên sông, những ngọn lửa nhỏ màu xanh, màu đỏ, màu trắng, rượt đuổi nhau, vượt mặt nhau, dung hợp nhau, giao cắt nhau - rồi lại chậm rãi hay hối hả tách ra. Giao thông của đại đô thành vẫn tiếp tục giữa đêm sâu trên dòng sông không ngủ. Chúng tôi quan sát, kiên nhẫn chờ đợi - đâu còn gì để làm khi triều chưa rút, nhưng phải đến khi, sau một quãng dài im lặng, gã ngập ngừng hỏi, “Chắc các cậu còn nhớ, có một thời tôi chuyển sang đi tàu nước ngọt,” chúng tôi mới biết là số mình sẽ phải, trước khi triều xuống, lắng nghe một trong những trải nghiệm không có hồi kết của Marlow.\n\n“Tôi không muốn bắt các cậu nghe nhiều về chuyện xảy ra với cá nhân tôi,” gã bắt đầu, qua đó cho thấy nhược điểm chung của nhiều người kể chuyện, vốn hiếm khi nhận thức được đâu là cái thính giả thích nghe nhất; “nhưng để hiểu tác động của nó với tôi, các cậu cần biết sao tôi lại đến đó, tôi đã thấy những gì, tôi ngược sông ra sao để đến nơi gặp kẻ bất hạnh ấy lần đầu. Đó vừa là điểm tận cùng của thủy trình vừa là cao trào của câu chuyện. Không rõ từ đâu nó đã rọi một thứ ánh sáng lên mọi điều về tôi - vào cả nội tâm tôi. Nó lại tăm tối - bi ai nữa - chẳng có chút gì đặc biệt - cũng không thật sự rõ ràng. Không, không thật sự rõ ràng. Thế nhưng nó lại soi rọi một thứ ánh sáng.\n\n“Dạo ấy, chắc các cậu vẫn nhớ, tôi vừa về London sau rất nhiêu lênh đênh trên Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, Biển Trung Hoa - nghĩa là trải đủ mùi phương Đông - độ sáu năm gì đó, đang lang thang vạ vật, quấy quả các cậu làm việc và ăn nhờ ở đậu như thể tôi có thiên mệnh giáo hóa các cậu. Lúc đầu, tôi thấy rất thoải mái, nhưng sau một thời gian tôi đâm chán nghỉ ngơi. Thế là tôi bắt đầu kiếm một con tàu - đó khéo là việc khó nhằn nhất trần đời. Song chẳng tàu bè nào đoái hoài đến tôi. Chẳng bao lâu tôi cũng nản.\n\n“Hồi bé, tôi rất mê bản đồ. Tôi dành hàng giờ ngắm nghía Nam Mỹ, hoặc châu Phi, hoặc châu Úc, và đắm chìm trong huy hoàng của niềm vui khám phá. Thời ấy, trên Trái đất vẫn còn nhiều vùng trống, và khi thấy chỗ nào đặc biệt quyến rũ trên bản đồ (khốn nỗi chỗ nào cũng quyến rũ cả), tôi lại chỉ vào đó và nói, khi nào lớn mình sẽ tới đây. Tôi nhớ Bắc Cực là một trong số ấy. Ờ, tôi vẫn chưa đến đó, và giờ chắc cũng không định đến. Hết hấp dẫn rồi. Những chỗ khác thì rải rác quanh Xích đạo, trải khắp các vĩ tuyến trên cả hai bán cầu. Tôi đã đến một số chỗ, và... mà thôi, nói chuyện ấy làm gì. Nhưng hãy còn một chỗ - nói sao nhỉ, lớn nhất, trống vắng nhất, mà tôi vẫn đau đáu nghĩ về." }, { "instruction": "Could you help me translate these sentences into Vietnamese?", "input": "‘I am sorry to own I began to worry them. This was already a fresh departure for me. I was not used to get things that way, you know. I always went my own road and on my own legs where I had a mind to go. I wouldn’t have believed it of myself; but, then—you see—I felt somehow I must get there by hook or by crook. So I worried them. The men said ‘My dear fellow,’ and did nothing. Then—would you believe it?—I tried the women. I, Charlie Marlow, set the women to work— to get a job. Heavens! Well, you see, the notion drove me. I had an aunt, a dear enthusiastic soul. She wrote: ‘It will be delightful. I am ready to do anything, anything for you. It is a glorious idea. I know the wife of a very high personage in the Administration, and also a man who has lots of influence with,’ etc. She was determined to make no end of fuss to get me appointed skipper of a river steamboat, if such was my fancy.", "output": "“Tôi lấy làm hổ thẹn khi phải phiền đến họ. Nẻo đường này hoàn toàn mới mẻ với tôi. Các cậu vẫn biết, trước nay tôi không quen được việc bằng cách ấy. Tôi luôn đi đường tôi, bằng chân của tôi, đến nơi nào tôi muốn đến. Chính tôi cũng không tin nổi mình; nhưng, lúc đó - các cậu biết đấy - không hiểu sao tôi cảm thấy phải đến đó bằng mọi giá. Nên tôi cầu viện họ. Các ông nói ‘Cháu quý hóa ơi,’ và không làm gì sất. Thế là - ai mà tin được? - Tôi tìm đến các bà. Tôi, Charlie Marlow, lùa các bà đi tìm việc cho mình. Chúa ơi! Ờ, các cậu biết đấy, ý tưởng ấy, nó xui khiến tôi. Tôi có một bà dì, một tâm hồn nhiệt tình dễ mến. Bà lão viết: “Thế thì hay lắm. Dì sẵn lòng làm bất kỳ, bất kỳ điều gì cho cháu. Một dự định tuyệt vời. Người quen của dì là vợ một nhân vật đức cao vọng trọng trong Chính quyền, còn là người rất có ảnh hưởng với,” vân vân và vân vân. Bà quyết không từ một phiền toái nào để giúp tôi làm thuyền trưởng một con tàu hơi nước, nếu quả đó là mơ mộng của tôi." }, { "instruction": "I require the translation of these English sentences into Vietnamese.", "input": "‘I got my appointment—of course; and I got it very quick. It appears the Company had received news that one of their captains had been killed in a scuffle with the natives. This was my chance, and it made me the more anxious to go. It was only months and months afterwards, when I made the attempt to recover what was left of the body, that I heard the original quarrel arose from a misunderstanding about some hens. Yes, two black hens. Fresleven—that was the fellow’s name, a Dane—thought himself wronged somehow in the bargain, so he went ashore and started to hammer the chief of the village with a stick. Oh, it didn’t surprise me in the least to hear this, and at the same time to be told that Fresleven was the gentlest, quietest creature that ever walked on two legs. No doubt he was; but he had been a couple of years already out there engaged in the noble cause, you know, and he probably felt the need at last of asserting his self-respect in some way. Therefore he whacked the old nigger mercilessly, while a big crowd of his people watched him, thunderstruck, till some man— I was told the chief’s son—in desperation at hearing the old chap yell, made a tentative jab with a spear at the white man— and of course it went quite easy between the shoulder-blades. Then the whole population cleared into the forest, expecting all kinds of calamities to happen, while, on the other hand, the steamer Fresleven commanded left also in a bad panic, in charge of the engineer, I believe. Afterwards nobody seemed to trouble much about Fresleven’s remains, till I got out and stepped into his shoes. I couldn’t let it rest, though; but when an opportunity offered at last to meet my predecessor, the grass growing through his ribs was tall enough to hide his bones. They were all there. The supernatural being had not been touched after he fell. And the village was deserted, the huts gaped black, rotting, all askew within the fallen enclosures. A calamity had come to it, sure enough. The people had vanished. Mad terror had scattered them, men, women, and children, through the bush, and they had never returned. What became of the hens I don’t know either. I should think the cause of progress got them, anyhow. However, through this glorious affair I got my appointment, before I had fairly begun to hope for it.", "output": "“Dĩ nhiên, tôi được bổ nhiệm; và được rất nhanh. Hình như bên Công ty vừa nhận được tin một thuyền trưởng bị giết vì ẩu đả với người bản xứ. Đó là cơ hội cho tôi, và nó khiến tôi càng háo hức. Phải nhiều, nhiều tháng sau, khi định thu nhặt di hài cho gã, tôi mới hay vụ cãi cọ ban đầu bắt nguồn từ hiểu nhầm về mấy con gà. Phải, hai con gà đen. Fresleven - đó là tên gã, dân Đan Mạch - cho rằng gã bị lừa bịp thế nào đó, bèn lên bờ dùng gậy vụt tay tù trưởng túi bụi. Tôi chẳng ngạc nhiên tí nào khi nghe chuyện đó, đồng thời cũng chẳng ngạc nhiên khi họ nói Fresleven là sinh vật hiền hòa lặng lẽ nhất từng đi hai chân trên thế gian này. Cái đó đã hẳn; nhưng đã mấy năm gã lăn lộn vì đại nghiệp, và có lẽ rốt cục gã thấy ít nhất cũng cần khẳng định lòng tự tôn bằng cách nào đó. Thế nên gã quật ông lão da đen không thương tiếc, trước ánh mắt thảng thốt của cả đám đông bộ lạc, đến khi một người - nghe nói là con trai vị tù trưởng - tuyệt vọng khi thấy ông cụ rên la, rón rén cầm giáo xiên tên da trắng - và tất nhiên mũi giáo xuyên rất ngọt vào giữa hai xương vai. Rồi cả làng tháo chạy vào rừng vì sợ đủ loại tai ương giáng xuống, trong khi con tàu hơi nước của Fresleven cũng táng đởm rút đi, dưới sự chỉ huy của tay thợ máy, tôi nghĩ vậy. Sau đó có vẻ chẳng ai quan tâm đến di cốt của Fresleven, cho đến khi tôi xuất hiện và kế nhiệm gã. Tôi không nỡ để gã nằm lại đó; nhưng cuối cùng, khi tôi có cơ hội gặp gỡ người tiền nhiệm, cỏ mọc xuyên lồng ngực đã cao đến mức che kín hài cốt gã. Tất cả vẫn còn nguyên đó. Không ai động đến sinh vật siêu nhiên ấy sau khi gã ngã xuống. Ngôi làng bị bỏ hoang, những túp lều há miệng đen ngòm, mục nát, tất cả ngả nghiêng sau lớp rào đã đổ. Tai ương đã ập xuống, hẳn rồi. Dân làng đã biến mất. Nỗi khiếp sợ kinh hoàng đã ly tán họ, đàn ông, đàn bà, con trẻ, vào rừng rậm, không bao giờ quay lại. số phận mấy con gà ra sao, tôi không rõ nữa. Có lẽ tôi nên nghĩ rằng trước sau gì chúng cũng bị cuốn vào guồng quay của tiến bộ. Tuy nhiên, nhờ biến cố huy hoàng này mà tôi được bổ nhiệm, trước khi tôi bắt đầu mơ tưởng đến điều đó." }, { "instruction": "I would like to have these sentences translated into Vietnamese.", "input": "‘One evening as I was lying flat on the deck of my steamboat, I heard voices approaching—and there were the nephew and the uncle strolling along the bank. I laid my head on my arm again, and had nearly lost myself in a doze, when somebody said in my ear, as it were: ‘I am as harmless as a little child, but I don’t like to be dictated to. Am I the manager—or am I not? I was ordered to send him there. It’s incredible.’ … I became aware that the two were standing on the shore alongside the forepart of the steamboat, just below my head. I did not move; it did not occur to me to move: I was sleepy. ‘It IS unpleasant,’ grunted the uncle. ‘He has asked the Administration to be sent there,’ said the other, ‘with the idea of showing what he could do; and I was instructed accordingly. Look at the influence that man must have. Is it not frightful?’ They both agreed it was frightful, then made several bizarre remarks: ‘Make rain and fine weather—one man—the Council—by the nose’— bits of absurd sentences that got the better of my drowsiness, so that I had pretty near the whole of my wits about me when the uncle said, ‘The climate may do away with this difficulty for you. Is he alone there?’ ‘Yes,’ answered the manager; ‘he sent his assistant down the river with a note to me in these terms: ‘Clear this poor devil out of the country, and don’t bother sending more of that sort. I had rather be alone than have the kind of men you can dispose of with me.’ It was more than a year ago. Can you imagine such impudence!’ ‘Anything since then?’ asked the other hoarsely. ‘Ivory,’ jerked the nephew; ‘lots of it—prime sort—lots—most annoying, from him.’ ‘And with that?’ questioned the heavy rumble. ‘Invoice,’ was the reply fired out, so to speak. Then silence. They had been talking about Kurtz.", "output": "“Tối nọ, khi đang nằm ngửa trên boong, tôi chợt nghe tiếng người tới gần - hóa ra là hai bác cháu nhà kia đang sải bước bên bờ sông. Tôi lại gối đầu lên tay và gần như chìm vào giấc ngủ thì có người nói, có thể gọi là sát bên tai: ‘Tính cháu lành như con nít, nhưng cháu không ưa bị chỉ đạo... Cháu có còn là giám đốc nữa không? Họ ra lệnh cho cháu cử hắn tới đó. Vớ vẩn hết sức,’ Tôi sực hiểu, hai bác cháu đang đứng trên bờ, sát thân tàu, ngay dưới đầu tôi. Tôi không cử động; tôi không nghĩ đến chuyện động đậy: tôi đang buồn ngủ. ‘Đáng ghét thật,’ lão bác lầm bầm. ‘Hắn yêu cầu Ban Quản Trị cử đi,’ gã cháu tiếp, ‘để chứng tỏ khả năng của mình; còn cháu được lệnh làm theo. Thế lực của hắn hẳn phải gớm lắm. Bác bảo thế có đáng ngại không?’ Cả hai nhất trí như thế thật đáng ngại, rồi đưa ra vài bình luận kỳ quái: ‘Ngửa tay làm mây, lật tay làm mưa - một cá nhân - cả Hội đồng - dắt mũi - từng mẩu hội thoại kỳ quái dần lấn át cơn buồn ngủ, vì thế nên tôi gần như hoàn toàn tỉnh táo khi lão bác thốt, ‘Biết đâu thời tiết sẽ giúp cháu chấm dứt nỗi lo này. Hắn có một mình à?’ ‘Phải,’ gã giám đốc đáp; ‘hắn cử trợ lý xuôi dòng mang đến cho cháu một lời nhắn, nội dung thế này: “Hãy tống cổ gã khốn kiếp ấy về nước, và chớ bận tâm gửi thêm cái ngữ đó tới đây nữa. Tôi thà xoay xở một mình còn hơn nhận loại anh có thể thí cho tôi.” Vụ ấy từ hơn một năm trước. Bác có hình dung nổi thái độ hỗn xược ấy không!’ ‘Từ đó còn gì nữa không?’ Lão kia khàn khàn hỏi. ‘Ngà,’ gã cháu giật giọng; ‘nhiều... loại hảo hạng... rất nhiều... thế mới đau chứ.’ ‘Và cùng với đó?’ Giọng trầm khàn hỏi. ‘Hóa đơn,’ câu trả lời được khạc ra. Rồi im lặng. Chúng vừa nói về Kurtz." }, { "instruction": "Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?", "input": "‘In a few days the Eldorado Expedition went into the patient wilderness, that closed upon it as the sea closes over a diver. Long afterwards the news came that all the donkeys were dead. I know nothing as to the fate of the less valuable animals. They, no doubt, like the rest of us, found what they deserved. I did not inquire. I was then rather excited at the prospect of meeting Kurtz very soon. When I say very soon I mean it comparatively. It was just two months from the day we left the creek when we came to the bank below Kurtz’s station.", "output": "“Vài ngày sau, đoàn thám hiểm Eldorado tiến vào vùng hoang dã kiên nhẫn ấy, và nó nuốt chửng họ như biển nuốt chửng thợ lặn. Khá lâu sau có tin rằng bầy lừa đã chết sạch, số phận của những động vật thấp kém hơn ra sao thì tôi không rõ. Bọn chúng, lẽ tất nhiên, như tất cả chúng ta, đều tìm thấy kết cục xứng đáng với mình. Tôi cũng không tìm hiểu. Khi ấy tôi đang hứng thú với khả năng sẽ sớm được gặp Kurtz. Chữ ‘sớm’ ở đây chỉ có tính tương đối. Từ khi chúng tôi rời con kênh đến khi cập bờ ở chỗ dẫn lên trạm của Kurtz vừa tròn hai tháng." }, { "instruction": "I'm seeking a Vietnamese translation for these English sentences.", "input": "‘Going up that river was like traveling back to the earliest beginnings of the world, when vegetation rioted on the earth and the big trees were kings. An empty stream, a great silence, an impenetrable forest. The air was warm, thick, heavy, sluggish. There was no joy in the brilliance of sunshine. The long stretches of the waterway ran on, deserted, into the gloom of overshadowed distances. On silvery sand-banks hippos and alligators sunned themselves side by side. The broadening waters flowed through a mob of wooded islands; you lost your way on that river as you would in a desert, and butted all day long against shoals, trying to find the channel, till you thought yourself bewitched and cut off for ever from everything you had known once—somewhere—far away—in another existence perhaps. There were moments when one’s past came back to one, as it will sometimes when you have not a moment to spare for yourself; but it came in the shape of an unrestful and noisy dream, remembered with wonder amongst the overwhelming realities of this strange world of plants, and water, and silence. And this stillness of life did not in the least resemble a peace. It was the stillness of an implacable force brooding over an inscrutable intention. It looked at you with a vengeful aspect. I got used to it afterwards; I did not see it any more; I had no time. I had to keep guessing at the channel; I had to discern, mostly by inspiration, the signs of hidden banks; I watched for sunken stones; I was learning to clap my teeth smartly before my heart flew out, when I shaved by a fluke some infernal sly old snag that would have ripped the life out of the tin-pot steamboat and drowned all the pilgrims; I had to keep a lookout for the signs of dead wood we could cut up in the night for next day’s steaming. When you have to attend to things of that sort, to the mere incidents of the surface, the reality—the reality, I tell you—fades. The inner truth is hidden—luckily, luckily. But I felt it all the same; I felt often its mysterious stillness watching me at my monkey tricks, just as it watches you fellows performing on your respective tight-ropes for—what is it? half-a-crown a tumble—‘", "output": "“Đi ngược con sông ấy giống như ngược về thuở hồng hoang của thế giới, khi thực vật tung hoành khắp địa cầu và đại thụ là chúa tể. Một dòng chảy trống rỗng, một sự im lặng vĩ đại, và một cánh rừng không thể xuyên qua. Không khí ấm, đặc, nặng nề, trì trệ. Mặt trời rực rỡ chẳng đem lại chút hân hoan nào. Những chặng thủy lộ dài chạy suốt, giữa hoang vu, vào cái âm trầm của những vùng xa xôi âm ám. Trên bờ cát ánh bạc, hà mã cùng cá sấu chen nhau nằm phơi nắng. Dòng nước rộng dần chảy qua một nhúm đảo nhấp nhô cây; trên con sông ấy, ta cũng bị lạc đường như ngoài sa mạc, và suốt ngày va phải những cồn cát ngầm, khi cố tìm lại luồng nước, cho đến khi nghĩ mình bị ma ám và vĩnh viễn đoạn tuyệt với mọi thứ ta từng quen thuộc... ở đâu đó... rất xa xăm... có lẽ từ kiếp khác. Có những giây phút dĩ vãng trở về, điều đôi khi vẫn xảy ra khi ta không có lấy một giây phút cho bản thân; nhưng nó hiện về trong hình hài một giấc mơ bất an và huyên náo, mà ta hồi tưởng trong nỗi bàng hoàng giữa thực tại choáng ngợp của thế giới kỳ dị của cây, của nước, và của im lặng này. Và sự tĩnh lặng này của sự sống tuyệt nhiên không giống với hòa bình. Đó là sự tĩnh lặng của một sức mạnh bất khả trấn an đang nuôi dưỡng một ý đồ vô phương đoán định. Nó nhìn ta bằng một diện mạo đầy thù hận. Sau này, tôi đâm quen với nó; tôi không nhìn nó nữa; tôi không có thời gian. Tôi liên tục phải phán đoán luồng lạch; tôi phải phát hiện, chủ yếu bằng linh cảm, dấu hiệu của các doi cát ẩn; tôi phải đề phòng đá ngầm; tôi học cách khôn ngoan nghiến răng trước khi tim vọt ra ngoài mỗi lần may phúc quẹt qua một khúc cây già hiểm độc dư sức tước đoạt sinh mệnh của con tàu hơi nước ọp ẹp và nhấn chìm mọi kẻ lữ hành; tôi phải không ngừng lùng sục dấu vết củi khô, để tối đến chặt sẵn làm nhiên liệu cho hôm sau. Khi phải lo lắng những chuyện đó, những sự vụ bề nổi ấy, thực tại... thực tại, các cậu hiểu không - nhòa đi. Sự thật bên trong bị ẩn đi... may thay, may thay. Nhưng tôi vẫn cảm thấy nó; tôi vẫn hay cảm thấy sự tĩnh lặng bí hiểm ấy đang dõi theo những trò ranh vặt của tôi, cũng như nó vẫn xem các cậu diễn trò thăng bằng trên sợi dây của mỗi người, để đổi lấy... bao nhiêu hả? Năm xu một cú ngã…”" }, { "instruction": "I would like to have these sentences translated into Vietnamese.", "input": "‘The current was more rapid now, the steamer seemed at her last gasp, the stern-wheel flopped languidly, and I caught myself listening on tiptoe for the next beat of the boat, for in sober truth I expected the wretched thing to give up every moment. It was like watching the last flickers of a life. But still we crawled. Sometimes I would pick out a tree a little way ahead to measure our progress towards Kurtz by, but I lost it invariably before we got abreast. To keep the eyes so long on one thing was too much for human patience. The manager displayed a beautiful resignation. I fretted and fumed and took to arguing with myself whether or no I would talk openly with Kurtz; but before I could come to any conclusion it occurred to me that my speech or my silence, indeed any action of mine, would be a mere futility. What did it matter what any one knew or ignored? What did it matter who was manager? One gets sometimes such a flash of insight. The essentials of this affair lay deep under the surface, beyond my reach, and beyond my power of meddling.", "output": "“Nước chảy càng lúc càng xiết, con tàu xem ra đã kiệt sức, bánh xe chèo lọp phọp đầy uể oải, và tôi thấy mình rón rén lắng nghe mỗi nhịp đập kế tiếp của con tàu, vì thực lòng tôi chờ đợi cỗ máy khốn khổ ấy gục ngã bất kỳ lúc nào. Nó như thể quan sát tro tàn le lói của sự sống. Nhưng chúng tôi vẫn bò tiếp. Đôi khi, tôi chọn ra một gốc cây phía trước không xa làm mốc đo tiến độ đến chỗ Kurtz, nhưng tôi luôn lạc mất nó trước khi tàu đến nơi. Dán mắt vào một vật lâu thế vượt quá giới hạn kiên nhẫn của con người. Viên giám đốc thể hiện một vẻ nhẫn nhục nhìn sướng cả mắt. Tôi bồn chồn khấp khởi và tự tranh luận với bản thân xem có nên nói chuyện cởi mở với Kurtz; nhưng trước khi kịp đi đến bất cứ kết luận gì tôi lại nhận ra, mở lời hay im lặng, kỳ thực bất cứ hành động nào của tôi, cũng chỉ là vô nghĩa. Chuyện ai biết hay không thì có ý nghĩa gì? Chuyện ai làm giám đốc thì có ý nghĩa gì? Đôi khi ta bỗng nhiên bừng ngộ như thế đấy. Bản chất của việc này nằm sâu dưới bề mặt, ngoài tầm với, và ngoài khả năng can thiệp của tôi." }, { "instruction": "I need these sentences to be translated into Vietnamese.", "input": "‘Towards the evening of the second day we judged ourselves about eight miles from Kurtz’s station. I wanted to push on; but the manager looked grave, and told me the navigation up there was so dangerous that it would be advisable, the sun being very low already, to wait where we were till next morning. Moreover, he pointed out that if the warning to approach cautiously were to be followed, we must approach in daylight— not at dusk or in the dark. This was sensible enough. Eight miles meant nearly three hours’ steaming for us, and I could also see suspicious ripples at the upper end of the reach. Nevertheless, I was annoyed beyond expression at the delay, and most unreasonably, too, since one night more could not matter much after so many months. As we had plenty of wood, and caution was the word, I brought up in the middle of the stream. The reach was narrow, straight, with high sides like a railway cutting. The dusk came gliding into it long before the sun had set. The current ran smooth and swift, but a dumb immobility sat on the banks. The living trees, lashed together by the creepers and every living bush of the undergrowth, might have been changed into stone, even to the slenderest twig, to the lightest leaf. It was not sleep—it seemed unnatural, like a state of trance. Not the faintest sound of any kind could be heard. You looked on amazed, and began to suspect yourself of being deaf— then the night came suddenly, and struck you blind as well. About three in the morning some large fish leaped, and the loud splash made me jump as though a gun had been fired. When the sun rose there was a white fog, very warm and clammy, and more blinding than the night. It did not shift or drive; it was just there, standing all round you like something solid. At eight or nine, perhaps, it lifted as a shutter lifts. We had a glimpse of the towering multitude of trees, of the immense matted jungle, with the blazing little ball of the sun hanging over it—all perfectly still—and then the white shutter came down again, smoothly, as if sliding in greased grooves. I ordered the chain, which we had begun to heave in, to be paid out again. Before it stopped running with a muffled rattle, a cry, a very loud cry, as of infinite desolation, soared slowly in the opaque air. It ceased. A complaining clamour, modulated in savage discords, filled our ears. The sheer unexpectedness of it made my hair stir under my cap. I don’t know how it struck the others: to me it seemed as though the mist itself had screamed, so suddenly, and apparently from all sides at once, did this tumultuous and mournful uproar arise. It culminated in a hurried outbreak of almost intolerably excessive shrieking, which stopped short, leaving us stiffened in a variety of silly attitudes, and obstinately listening to the nearly as appalling and excessive silence. ‘Good God! What is the meaning—’ stammered at my elbow one of the pilgrims— a little fat man, with sandy hair and red whiskers, who wore sidespring boots, and pink pyjamas tucked into his socks. Two others remained open-mouthed a while minute, then dashed into the little cabin, to rush out incontinently and stand darting scared glances, with Winchesters at ‘ready’ in their hands. What we could see was just the steamer we were on, her outlines blurred as though she had been on the point of dissolving, and a misty strip of water, perhaps two feet broad, around her— and that was all. The rest of the world was nowhere, as far as our eyes and ears were concerned. Just nowhere. Gone, disappeared; swept off without leaving a whisper or a shadow behind.", "output": "“Đến tối ngày thứ hai chúng tôi ước tính mình còn cách trạm của Kurtz chừng tám dặm. Tôi muốn dấn tới; nhưng viên giám đốc mặt lầm lì, và nói lộ trình phía trước rất nguy hiểm, trong khi mặt trời đã sắp lặn, nên tốt nhất là đợi tới sáng hôm sau. Ngoài ra, gã lập luận, nếu lời cảnh báo cần thận trọng khi tiếp cận là đáng tin cậy, thì chúng tôi phải tiếp cận vào ban ngày chứ không phải lúc chạng vạng, hay khi trời tối. Lập luận của gã cũng hợp lý. Tám dặm tức là gần ba tiếng đi tàu, và tôi cũng có thể thấy những gợn nước đầy bất trắc phía trên quãng sông trước mặt. Dù vậy, sự chậm trễ ấy vẫn khơi dậy trong tôi một nỗi bức bối khôn tả, và gần như phi lý, bởi thêm một đêm chẳng nghĩa lý khi đã đi ngần ấy tháng. Bởi còn nhiều củi, và châm ngôn là thận trọng, tôi cho cập bờ ở giữa dòng. Quãng sông này hẹp, thẳng, bờ dốc như hào đường sắt. Bóng tối tràn đến từ lâu trước khi mặt trời lặn. Nước chảy rất êm và xiết, nhưng trên bờ là một sự bất động đờ đẫn. Những rặng cây sống, bị dây leo và đám cây bụi ở tầng thấp bó xiết lại với nhau, dường như đã hóa đá, từ cành cây mảnh mai nhất đến chiếc lá mỏng manh nhất. Chúng không ngủ - mà lâm vào một trạng thái phi tự nhiên, như thể hôn mê. Chúng tôi tuyệt không nghe thấy âm thanh nào, dù mơ hồ nhất. Ta thẫn thờ quan sát, và bắt đầu hoài nghi: hay mình bị điếc - thế rồi màn đêm bất ngờ ập xuống, làm ta mù luôn. Độ ba giờ sáng, một con cá to nhảy lên, và tiếng nước tõm làm tôi giật nảy mình như nghe thấy tiếng súng. Mặt trời lên cùng với một màn sương trắng, rất ấm và ẩm ướt, mịt mù còn hơn cả bóng đêm. Nó không dịch chuyển; mà cứ ở yên đó, vây quanh ta như một thứ hữu hình. Độ tám, chín giờ nó lật lên như một tấm cửa chớp. Chúng tôi thoáng thấy vô vàn chất ngất thân cây, trùng trùng điệp điệp rừng già, và lơ lửng bên trên là trái cầu mặt trời đỏ rực - tất cả đều bất động tuyệt đối - thế rồi tấm cửa chớp trắng kia lại sập xuống, êm ru như trượt trong rãnh bôi dầu. Tôi ra lệnh thả sợi xích neo vừa được kéo lên trở lại. Trước khi nó ngừng tuột xuống trong tiếng lạch xạch tắc nghẹt, một tiếng hú, một tiếng hú rất lớn, như thể từ một nỗi cô liêu bất tận, chầm chậm vang vọng giữa không gian mờ đục. Rồi lịm tắt. Một tràng hét la rền ri, được điều tiết trong nhịp hỗn loạn man dại, tràn ngập tai chúng tôi. Nỗi bất ngờ tột độ khua tóc tôi dựng đứng dưới\n\nvành mũ. Tôi không rõ người khác cảm giác thế nào, nhưng với tôi, hình như chính màn sương vừa thét lên, đột ngột, và rô ràng là cơn om sòm náo động và bi thương ấy đồng thời trỗi dậy từ mọi hướng. Nó tích tụ rồi cấp tập bùng phát thành một tràng rú rít cực độ gần như không ai chịu nổi, và bất ngờ chấm dứt, để lại chúng tôi đờ người với đủ kiểu biểu cảm ngớ ngẩn, và ương ngạnh lắng nghe sự im lặng cũng kinh hoàng và cực độ không kém. ‘Lạy Chúa! Cái đó nghĩa là s..,’ một gã hành hương bíu lấy khuỷu tay tôi lắp bắp, - một gã béo lùn tóc hung, ria đỏ, đi ủng, pyjama hồng nhét vào bít tất. Hai gã khác há hốc mồm cả phút, xộc vào cabin rồi chạy xổ ra ngay, tay lăm lăm khẩu Winchester và dớn dác nhìn quanh. Tất cả những gì chúng tôi nhìn thấy là con tàu của mình, đường viền của nó nhòa đi như đang tan rã, và một dải nước mù sương rộng chừng nửa mét quanh nó - thế là hết. Đối với thị giác và thính giác của chúng tôi, phần còn lại của thế giới đã chìm vào hư không. Chỉ hư không. Tan đi, tiêu biến; bị quét sạch không để lại một tiếng thì thầm hay một chiếc bóng." }, { "instruction": "Can you provide a Vietnamese translation for these English sentences?", "input": "‘I looked at him, lost in astonishment. There he was before me, in motley, as though he had absconded from a troupe of mimes, enthusiastic, fabulous. His very existence was improbable, inexplicable, and altogether bewildering. He was an insoluble problem. It was inconceivable how he had existed, how he had succeeded in getting so far, how he had managed to remain— why he did not instantly disappear. ‘I went a little farther,’ he said, ‘then still a little farther—till I had gone so far that I don’t know how I’ll ever get back. Never mind. Plenty time. I can manage. You take Kurtz away quick—quick—I tell you.’ The glamour of youth enveloped his parti-coloured rags, his destitution, his loneliness, the essential desolation of his futile wanderings. For months—for years—his life hadn’t been worth a day’s purchase; and there he was gallantly, thoughtlessly alive, to all appearances indestructible solely by the virtue of his few years and of his unreflecting audacity. I was seduced into something like admiration— like envy. Glamour urged him on, glamour kept him unscathed. He surely wanted nothing from the wilderness but space to breathe in and to push on through. His need was to exist, and to move onwards at the greatest possible risk, and with a maximum of privation. If the absolutely pure, uncalculating, unpractical spirit of adventure had ever ruled a human being, it ruled this bepatched youth. I almost envied him the possession of this modest and clear flame. It seemed to have consumed all thought of self so completely, that even while he was talking to you, you forgot that it was he— the man before your eyes—who had gone through these things. I did not envy him his devotion to Kurtz, though. He had not meditated over it. It came to him, and he accepted it with a sort of eager fatalism. I must say that to me it appeared about the most dangerous thing in every way he had come upon so far.", "output": "“Tôi nhìn gã, ngỡ ngàng vì kinh ngạc. Gã đứng đó trước mặt tôi, mặc lốt áo hề như thể vừa trốn khỏi gánh hát, hăng hái và huyền bí. Sự tồn tại của gã, bản thân nó đã là hoang đường, vô phương giải thích, về tổng thể là làm ta hoang mang. Gã là một nan đề không có lời giải. Thật không hiểu nổi làm sao gã lại tồn tại, làm sao gã đến được tận đây, làm sao gã trụ lại được - vì sao gã không biến mất ngay lập tức. ‘Tôi đi xa hơn một chút,’ gã nói, ‘rồi lại xa hơn chút nữa - đến khi xa tới mức tôi không biết liệu có còn quay lại được không. Có hề gì. Còn nhiều thời gian. Tôi sẽ lo được. Hãy đưa Kurtz đi ngay - ngay đi - hãy nghe tôi.’ Vẻ mỹ lệ của tuổi trẻ bao phủ tấm áo vá muôn màu, cảnh cơ hàn, sự cô đơn, và nỗi tịch liêu ăn vào cốt tủy trong mỗi cuộc lãng du vô vọng của gã. Suốt nhiều tháng - nhiều năm - tính mạng của gã chỉ tính bằng ngày; thế nhưng gã vẫn can trường và vô tư sống sót, tựa hồ bất diệt chỉ bằng tuổi đời ít ỏi và sự gan dạ không suy nghĩ của mình. Tôi bị cuốn vào một cảm xúc gần như ngưỡng mộ - như ghen tị. Hào quang giục gã tiến lên, hào quang giúp gã không mảy may thương tổn. Gã hiển nhiên chả cần gì từ hoang dã, ngoài không gian để hít thở và xông pha. Nhu cầu của gã là tồn tại, là tiến lên đối mặt với hiểm nguy tột cùng có thể và trong tình trạng thiếu thốn tối đa. Nếu tinh thần tuyệt đối thuần khiết, không toan tính và phi thực tế của máu phiêu lưu có từng chiếm lĩnh một con người, thì đó phải là gã thanh niên vá víu này. Tôi gần như ghen tị vì gã sở hữu ngọn lửa khiêm nhường và trong trẻo ấy. Dường như nó đã nuốt chửng mọi suy nghĩ về bản thân, đến mức ngay khi gã nói chuyện tới ta, ta còn quên mất rằng chính gã - người ngồi trước mặt ta - là người đã trải qua những điều đó. Tuy nhiên, tôi không ghen tị với sự tận tụy gã dành cho Kurtz. Gã không ngẫm nghĩ về điều đó. Nó đến với gã, và gã hào hứng đón nhận nó như một thứ định mệnh. Phải nói rằng tôi cảm thấy, xét trên mọi phương diện, đó dường như là điều nguy hiểm nhất gã phải đối mặt từ trước đến giờ." }, { "instruction": "Could you render these English sentences in Vietnamese?", "input": "‘They had come together unavoidably, like two ships becalmed near each other, and lay rubbing sides at last. I suppose Kurtz wanted an audience, because on a certain occasion, when encamped in the forest, they had talked all night, or more probably Kurtz had talked. ‘We talked of everything,’ he said, quite transported at the recollection. ‘I forgot there was such a thing as sleep. The night did not seem to last an hour. Everything! Everything! … Of love, too.’ ‘Ah, he talked to you of love!’ I said, much amused. ‘It isn’t what you think,’ he cried, almost passionately. ‘It was in general. He made me see things—things.’\n\n‘He threw his arms up. We were on deck at the time, and the headman of my wood-cutters, lounging near by, turned upon him his heavy and glittering eyes. I looked around, and I don’t know why, but I assure you that never, never before, did this land, this river, this jungle, the very arch of this blazing sky, appear to me so hopeless and so dark, so impenetrable to human thought, so pitiless to human weakness. ‘And, ever since, you have been with him, of course?’ I said.", "output": "“Họ đến với nhau là điều không tránh khỏi; như hai con tàu đứng lặng ở gần nhau cuối cùng sẽ cọ mạn. Tôi nghĩ Kurtz cần thính giả, vì có một lần, khi cắm trại trong rừng, họ nói chuyện suốt đêm, hay nhiều khả năng là chỉ Kurtz nói.\n\n‘Chúng tôi nói về mọi thứ,’ gã kể, lâng lâng hồi tưởng chuyện cũ. Tôi đã quên mất trên đời có khái niệm ngủ. Đêm hôm ấy ngắn chẳng tày gang. Mọi thứ! Mọi thứ!... Cả tình yêu nữa,’ ‘À, ông ấy tâm sự với cậu về tình yêu?’ Tôi hỏi, hứng thú gia tăng. ‘Không phải như ông nghĩ đâu,’ gã thốt, gần như đắm đuối. ‘Tinh yêu nói chung... Ông ấy đã cho tôi thấy nhiều điều - nhiều điều,’\n\n“Gã giơ tay lên trời. Chúng tôi đang ngồi trên boong, và tay trưởng nhóm đốn củi của tôi, đang nằm ườn gần đó, ngoảnh nhìn gã bằng đôi mắt nặng nề và lóng lánh. Tôi nhìn quanh, và tôi không rõ vì sao, nhưng tôi cam đoan với các anh rằng, chưa bao giờ, chưa một lần nào, miền đất này, dòng sông này, khu rừng này, vòm trời chói lóa này, lại hiện lên trước mắt tôi vô vọng và tối tăm đến thế, vô phương thấu hiểu trước suy nghĩ và tàn nhẫn trước điểm yếu của con người đến thế. ‘Từ đó tới nay, cậu vẫn ở cùng ông ấy chứ?’ Tôi hỏi." }, { "instruction": "Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?", "input": "‘I am not disclosing any trade secrets. In fact, the manager said afterwards that Mr. Kurtz’s methods had ruined the district. I have no opinion on that point, but I want you clearly to understand that there was nothing exactly profitable in these heads being there. They only showed that Mr. Kurtz lacked restraint in the gratification of his various lusts, that there was something wanting in him— some small matter which, when the pressing need arose, could not be found under his magnificent eloquence. Whether he knew of this deficiency himself I can’t say. I think the knowledge came to him at last—only at the very last. But the wilderness had found him out early, and had taken on him a terrible vengeance for the fantastic invasion. I think it had whispered to him things about himself which he did not know, things of which he had no conception till he took counsel with this great solitude—and the whisper had proved irresistibly fascinating. It echoed loudly within him because he was hollow at the core…. I put down the glass, and the head that had appeared near enough to be spoken to seemed at once to have leaped away from me into inaccessible distance.", "output": "“Tôi sẽ không tiết lộ bí mật thương mại nào. Kỳ thực, sau này chính viên giám đốc nói rằng phương pháp của Kurtz đã tàn phá vùng đất nọ. Tôi không có ý kiến gì về vụ ấy, nhưng muốn các cậu hiểu rõ rằng việc đám đầu lâu ở đó không mang lại lợi nhuận gì. Nó chỉ cho thấy rằng Kurtz thiếu kiềm chế trong việc thỏa mãn dục vọng đa dạng của y, rằng trong y thiếu hụt một điều gì đó - nhỏ thôi, nhưng khi nhu cầu bức thiết dâng cao, không thể tìm thấy dưới tài hùng biện xuất chúng của y. Y có ý thức được sự thiếu hụt đó không, tôi không rõ. Tôi nghĩ nhận thức ấy rốt cục cũng đến với y - vào phút chót. Nhưng hoang dã tìm ra y từ sớm, và giáng xuống y đòn báo thù khủng khiếp vì cuộc xâm lăng điên rồ này. Tôi nghĩ nó đã thì thầm bên tai y những điều y chưa rõ về bản thân, những điều y cũng chưa có ý niệm gì cho đến khi lắng nghe sự tịch liêu vĩ đại này - và lời thì thầm ấy hóa ra hấp dẫn vô phương cưỡng lại. Nó vang vọng trong y, bởi nội tâm y hoàn toàn trống rỗng... Tôi đặt ống nhòm xuống, và cái đầu vừa ở gần đến mức có thể cùng tôi nói chuyện dường như đột ngột nhảy vọt ra xa tôi đến một cự ly không thể tiếp cận." }, { "instruction": "I require the translation of these English sentences into Vietnamese.", "input": "‘The admirer of Mr. Kurtz was a bit crestfallen. In a hurried, indistinct voice he began to assure me he had not dared to take these—say, symbols—down. He was not afraid of the natives; they would not stir till Mr. Kurtz gave the word. His ascendancy was extraordinary. The camps of these people surrounded the place, and the chiefs came every day to see him. They would crawl…. ‘I don’t want to know anything of the ceremonies used when approaching Mr. Kurtz,’ I shouted. Curious, this feeling that came over me that such details would be more intolerable than those heads drying on the stakes under Mr. Kurtz’s windows. After all, that was only a savage sight, while I seemed at one bound to have been transported into some lightless region of subtle horrors, where pure, uncomplicated savagery was a positive relief, being something that had a right to exist—obviously—in the sunshine. The young man looked at me with surprise. I suppose it did not occur to him that Mr. Kurtz was no idol of mine. He forgot I hadn’t heard any of these splendid monologues on, what was it? on love, justice, conduct of life—or what not. If it had come to crawling before Mr. Kurtz, he crawled as much as the veriest savage of them all. I had no idea of the conditions, he said: these heads were the heads of rebels. I shocked him excessively by laughing. Rebels! What would be the next definition I was to hear? There had been enemies, criminals, workers—and these were rebels. Those rebellious heads looked very subdued to me on their sticks. ‘You don’t know how such a life tries a man like Kurtz,’ cried Kurtz’s last disciple. ‘Well, and you?’ I said. ‘I! I! I am a simple man. I have no great thoughts. I want nothing from anybody. How can you compare me to … ?’ His feelings were too much for speech, and suddenly he broke down. ‘I don’t understand,’ he groaned. ‘I’ve been doing my best to keep him alive, and that’s enough. I had no hand in all this. I have no abilities. There hasn’t been a drop of medicine or a mouthful of invalid food for months here. He was shamefully abandoned. A man like this, with such ideas. Shamefully! Shamefully! I—I— haven’t slept for the last ten nights …’", "output": "“Kẻ hâm mộ Kurtz có chiều ủ rũ. Bằng giọng vội vã, ấp úng, gã thanh minh rằng gã không dám gỡ những - tạm gọi là biểu tượng - ấy xuống. Gã không sợ thổ dân; họ sẽ không loạn động khi Kurtz chưa ra lệnh. Y có quyền uy phi thường. Họ cắm trại quanh đây; hàng ngày các tù trưởng đều tới ra mắt y. Họ sẽ bò... ‘Tôi không muốn biết gì về nghi lễ của họ khi yết kiến Kurtz hết,’ tôi hét. Kỳ lạ thay, cái cảm giác vừa xâm chiếm tôi, rằng những chi tiết ấy còn khó bề chịu đựng hơn đám đầu lâu bêu trên cọc ngoài cửa sổ nhà y. Nói cho cùng, đó chỉ là một cảnh tượng dã man, trong khi tôi sau một cú nhảy dường như đã được dịch chuyển đến một xứ sở vô quang của những điều kinh hoàng vi tế, nơi tục dã man giản đơn, thuần khiết - một hiện tượng có quyền tồn tại hiển nhiên dưới ánh mặt trời - lại thành ra niềm an ủi tích cực. Gã thanh niên kinh ngạc nhìn tôi. Việc tôi không thần tượng Kurtz có lẽ chưa từng thoáng qua đầu gã. Gã quên rằng tôi chưa hề nghe những đoạn độc thoại huy hoàng của y về, gì nhỉ? Tình yêu, công lý, cách sống và này kia. Nếu nói đến chuyện phủ phục trước Kurtz thì gã cũng phủ phục không kém gì kẻ man rợ nhất trong số họ. Tôi đâu có hiểu đầu đuôi câu chuyện, gã nói: đấy là đầu của bọn phản loạn. Tôi khiến gã choáng váng ghê gớm khi phá ra cười. Phản loạn! Không hiểu định nghĩa tiếp theo tôi sắp được nghe sẽ là gì? Đã có kẻ thù, tội phạm, công nhân - và nay có thêm phản loạn. Tôi thấy những cái đầu phản loạn ấy rất trầm lặng khi bị bêu trên cột. ‘Ông đâu biết người như Kurtz bị cuộc đời thử thách ra sao,’ tông đồ sau cùng của Kurtz thốt lên. ‘À, còn cậu?’ Tôi hỏi. ‘Tôi! Tôi! Tôi là người đơn giản. Tôi không có tư tưởng lớn lao. Tôi chẳng có bất kỳ đòi hỏi gì. Sao ông có thể so tôi với..,’ Cảm xúc dào dạt làm gã nghẹn lời, và đột nhiên, gã vỡ òa. ‘Tôi không hiểu,’ gã than. ‘Tôi đã làm hết sức mình để cứu sống ông ấy, và thế là đủ. Tôi không dính dáng đến tất cả những chuyện này. Tôi không có khả năng. Đã vài tháng nay ở đây chẳng có lấy một giọt thuốc hay một thìa thức ăn cho người ốm. Ông ấy bị bỏ rơi một cách thật đáng xấu hổ. Con người như thế, với tư tưởng như thế. Đáng xấu hổ! Đáng xấu hổ! Tôi... tôi... không ngủ đã mười đêm liền..,’\n\n" }, { "instruction": "Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?", "input": "‘His voice lost itself in the calm of the evening. The long shadows of the forest had slipped downhill while we talked, had gone far beyond the ruined hovel, beyond the symbolic row of stakes. All this was in the gloom, while we down there were yet in the sunshine, and the stretch of the river abreast of the clearing glittered in a still and dazzling splendour, with a murky and overshadowed bend above and below. Not a living soul was seen on the shore. The bushes did not rustle.\n\n‘Suddenly round the corner of the house a group of men appeared, as though they had come up from the ground. They waded waist-deep in the grass, in a compact body, bearing an improvised stretcher in their midst. Instantly, in the emptiness of the landscape, a cry arose whose shrillness pierced the still air like a sharp arrow flying straight to the very heart of the land; and, as if by enchantment, streams of human beings—of naked human beings—with spears in their hands, with bows, with shields, with wild glances and savage movements, were poured into the clearing by the dark-faced and pensive forest. The bushes shook, the grass swayed for a time, and then everything stood still in attentive immobility.", "output": "“Giọng gã lạc đi trong cái tính lặng của buổi tối. Những bóng dài của cánh rừng đã trườn xuống chân đồi trong khi chúng tôi nói chuyện, và đi quá cả căn lán xập xệ, quá cả hàng cọc biểu tượng kia từ lâu. Mọi thứ đều chìm trong bóng tối, trong khi chỗ chúng tôi ngồi vẫn nằm dưới nắng, và quãng sông trước mặt bãi trống vẫn lấp lánh một vẻ huy hoàng chói chang và tĩnh lặng, với một khúc quanh tối tăm và âm ám phía trên lẫn bên dưới. Trên bờ chẳng một bóng người. Bụi cây không xào xạc.\n\n“Đột nhiên từ sau nhà xuất hiện một nhóm người như thể từ dưới đất chui lên. Họ lội trong cỏ cao tới thắt lưng, tụ thành tốp nhỏ, khênh theo một chiếc cáng tự chế. Lập tức, giữa khung cảnh trống rỗng ấy, dậy lên một tiếng rú chói tai xuyên thủng không gian tĩnh lặng như một mũi tên nhọn sắc đâm thẳng vào trái tim xứ sở này; rồi, tựa hồ có ma thuật, từng dòng người - từng dòng người ở trần - tay cầm giáo, cầm cung, cầm khiên, nhãn thần hoang dại và động tác man rợ, được rừng già hắc diện và trầm tư trút ào ra khoảnh đất trống. Bụi rậm rung rinh, cỏ lao xao một lúc, rồi tất cả lại đứng yên trong một sự bất động đầy chăm chú." }, { "instruction": "I need help with translating these English sentences into Vietnamese.", "input": "‘Now, if he does not say the right thing to them we are all done for,’ said the Russian at my elbow. The knot of men with the stretcher had stopped, too, halfway to the steamer, as if petrified. I saw the man on the stretcher sit up, lank and with an uplifted arm, above the shoulders of the bearers. ‘Let us hope that the man who can talk so well of love in general will find some particular reason to spare us this time,’ I said. I resented bitterly the absurd danger of our situation, as if to be at the mercy of that atrocious phantom had been a dishonouring necessity. I could not hear a sound, but through my glasses I saw the thin arm extended commandingly, the lower jaw moving, the eyes of that apparition shining darkly far in its bony head that nodded with grotesque jerks. Kurtz—Kurtz—that means short in German—don’t it? Well, the name was as true as everything else in his life— and death. He looked at least seven feet long. His covering had fallen off, and his body emerged from it pitiful and appalling as from a winding-sheet. I could see the cage of his ribs all astir, the bones of his arm waving. It was as though an animated image of death carved out of old ivory had been shaking its hand with menaces at a motionless crowd of men made of dark and glittering bronze. I saw him open his mouth wide—it gave him a weirdly voracious aspect, as though he had wanted to swallow all the air, all the earth, all the men before him. A deep voice reached me faintly. He must have been shouting. He fell back suddenly. The stretcher shook as the bearers staggered forward again, and almost at the same time I noticed that the crowd of savages was vanishing without any perceptible movement of retreat, as if the forest that had ejected these beings so suddenly had drawn them in again as the breath is drawn in a long aspiration.", "output": "“ ‘Rồi, nếu ông ấy không nói với họ điều nên nói thì chúng ta coi như xong,’ gã Nga níu tay tôi. Tốp khiêng cáng đã dừng lại cách con tàu một đoạn, tựa hồ tê liệt. Tôi thấy người trên cáng ngồi dậy, gầy gò và một cánh tay giơ cao, quá vai phu khiêng cáng. ‘Hy vọng người có thể cao đàm khoát luận về tình yêu nói chung sẽ tìm thấy một lý do nói riêng để xá tội cho chúng ta lần này,’ tôi nói. Tôi ghét cay ghét đắng tính lố bịch của tình huống hiểm nghèo này như thể bị đặt dưới lòng nhân từ của bóng ma tàn ác kia là một sự cùng đường ô nhục. Tôi không nghe thấy tiếng động gì, nhưng bằng ống nhòm tôi thấy cánh tay gầy guộc vươn lên đầy quyền uy, hàm dưới chuyển động, cặp mắt u linh tỏa ánh hắc ám từ sâu trong cái đầu xương xẩu đang gục gặc gật đầu một cách kỳ dị. Kurtz - Kurtz - tiếng Đức là ngắn phải không nhỉ? Hà, cái tên ấy cũng chính xác như mọi thứ khác trong cuộc sống - lẫn cái chết - của y. Trông y ít nhất phải dài hơn hai mét. Tấm chăn đã tuột xuống, và cơ thể y nhô ra thảm thương và kinh khiếp như từ một tấm vải liệm. Tôi thấy rõ lồng ngực y nhấp nhô, xương tay y vẫy vẫy. Trông y như thể một hình ảnh hoạt họa của tử thần, điêu khắc từ ngà voi cũ, đang giũ đôi tay chất chứa tai ương lên đám đông bất động tạc bằng đồng đen lấp lánh. Tôi thấy y há miệng thật lớn - nó đem lại cho y một diện mạo tham tàn kỳ quái, như thể y muốn nuốt hết cả trời, cả đất, và cả người trước mặt. Một giọng nói âm trầm vẳng đến tai tôi. Hẳn là y vừa hét. Bỗng y ngã ngửa ra sau. Chiếc cáng lắc lư khi tốp phu loạng choạng tiến lên, và gần như đồng thời tôi phát hiện ra, bầy man di đang biến mất mà không có dấu hiệu nhận biết được nào của việc tháo lui, như thể rừng già sau khi phun những sinh vật này ra lại bất ngờ rút chúng về theo hơi thở trong một nhịp hít dài." }, { "instruction": "Could you help me translate these sentences into Vietnamese?", "input": "‘Some of the pilgrims behind the stretcher carried his arms— two shot-guns, a heavy rifle, and a light revolver-carbine— the thunderbolts of that pitiful Jupiter. The manager bent over him murmuring as he walked beside his head. They laid him down in one of the little cabins—just a room for a bed place and a camp-stool or two, you know. We had brought his belated correspondence, and a lot of torn envelopes and open letters littered his bed. His hand roamed feebly amongst these papers. I was struck by the fire of his eyes and the composed languor of his expression. It was not so much the exhaustion of disease. He did not seem in pain. This shadow looked satiated and calm, as though for the moment it had had its fill of all the emotions.\n\n‘He rustled one of the letters, and looking straight in my face said, ‘I am glad.’ Somebody had been writing to him about me. These special recommendations were turning up again. The volume of tone he emitted without effort, almost without the trouble of moving his lips, amazed me. A voice! a voice! It was grave, profound, vibrating, while the man did not seem capable of a whisper. However, he had enough strength in him— factitious no doubt—to very nearly make an end of us, as you shall hear directly.\n\n‘The manager appeared silently in the doorway; I stepped out at once and he drew the curtain after me. The Russian, eyed curiously by the pilgrims, was staring at the shore. I followed the direction of his glance.\n\n‘Dark human shapes could be made out in the distance, flitting indistinctly against the gloomy border of the forest, and near the river two bronze figures, leaning on tall spears, stood in the sunlight under fantastic head-dresses of spotted skins, warlike and still in statuesque repose. And from right to left along the lighted shore moved a wild and gorgeous apparition of a woman.", "output": "“Vài gã hành hương đi sau cáng mang vũ khí cho y - hai khẩu súng đạn ghém, một cây súng trường hạng nặng, và một khẩu carbine ổ quay - những lưỡi tầm sét của vị thần Jupiter thảm thương ấy. Tay giám đốc cúi xuống thì thầm với y khi đi cạnh cáng. Họ đặt y vào một trong những căn lán nhỏ - loại chỉ đủ kê cái giường và một hai chiếc ghế. Chúng tôi cầm theo thư từ đến muộn của y, và quanh giường y vung vãi nhiều phong bì đã xé và thư đã mở. Bàn tay y lẩy bẩy lần sờ chỗ giấy tờ ấy. Tôi ngỡ ngàng trước ngọn lửa trong mắt y và vẻ suy nhược điềm tĩnh trên gương mặt y. Nó không hẳn là sự kiệt quệ vì bệnh tật. Y không có vẻ đau đớn. Cái bóng này có vẻ thỏa mãn và bình thản, như thể lúc này mọi cảm xúc của nó đều trọn vẹn.\n\n“Y loạt soạt giở một lá thư, rồi nhìn thẳng mặt tôi và thốt, ‘Ta rất vui,’ Ai đó đã viết cho y về tôi. Những lời giới thiệu đặc biệt kia lại xuất hiện. Âm lượng của tiếng nói được y phát ra một cách dễ dàng, gần như không cần mấp máy môi, khiến tôi kinh ngạc. Giọng nói ấy! Giọng nói ấy! Nó thâm nghiêm, sâu thẳm, rung động, trong khi nhìn y như không còn hơi sức thì thầm. Dù vậy, y vẫn còn đủ sức - tất nhiên là hư trương - để suýt nữa kết liễu chúng tôi, như các cậu sắp được nghe.\n\n“Viên giám đốc lặng lẽ xuất hiện trên ngưỡng cửa; tôi lập tức rút lui và gã kéo rèm lại sau lưng tôi. Gã người Nga, dưới ánh mắt tò mò của bọn hành hương, đăm đăm nhìn ra bờ sông. Tôi dõi theo hướng nhìn của gã.\n\n“Có thể nhận ra từ xa những bóng đen, thoắt ẩn thoắt hiện trước bìa rừng tăm tối, và gần sông là hai dáng người màu đồng, tì vào cây giáo dài, đứng trong ánh nắng, dưới vành mũ xòe cầu kỳ bằng da đốm, tư thế như tượng chiến thần. Và đi từ phải sang trái dọc bờ sông tỏa sáng là nhân ảnh hoang dại và mỹ lệ của một nữ nhân.\n\n" }, { "instruction": "Can you render these English sentences in Vietnamese, please?", "input": "‘She walked with measured steps, draped in striped and fringed cloths, treading the earth proudly, with a slight jingle and flash of barbarous ornaments. She carried her head high; her hair was done in the shape of a helmet; she had brass leggings to the knee, brass wire gauntlets to the elbow, a crimson spot on her tawny cheek, innumerable necklaces of glass beads on her neck; bizarre things, charms, gifts of witch-men, that hung about her, glittered and trembled at every step. She must have had the value of several elephant tusks upon her. She was savage and superb, wild-eyed and magnificent; there was something ominous and stately in her deliberate progress. And in the hush that had fallen suddenly upon the whole sorrowful land, the immense wilderness, the colossal body of the fecund and mysterious life seemed to look at her, pensive, as though it had been looking at the image of its own tenebrous and passionate soul.", "output": "“Ả bước từng bước đều đặn, vấn xà rông kẻ sọc và tua rua, hai bàn chân kiêu ngạo giẫm lên mặt đất, với một chút leng keng lóng lánh từ những trang sức man sơ. Ả ngẩng cao đầu; tóc vấn thành hình mũ trụ; chân quấn xà cạp đồng tới gối, bao tay sợi đồng đến khuỷu; gò má ngăm điểm nốt ruồi son, vô số vòng hạt cườm trên cổ; đủ thứ dị vật, bùa chú, tặng vật của thầy mo... lủng lẳng trên người, lấp loáng rung rinh theo những bước chân. Giá trị ả mang trên người phải tương đương mấy cặp ngà. Ả man dã và mỹ miều, cuồng nhiệt và diễm lệ; trong bước tiến điềm tĩnh của ả có vẻ gì đó vừa uy nghi vừa đe dọa. Trong sự thinh lặng vừa bất ngờ phủ xuống xứ sở bi thương này, chốn hoang dã bao la này, thực thể khổng lồ của sự sống đầy phồn thực và bí hiểm kia dường như đang quan sát ả, trầm ngâm, tựa hồ nó đang nhìn thấy hình ảnh linh hồn hắc ám và cuồng mê của chính mình." }, { "instruction": "Please translate these English sentences into Vietnamese for me.", "input": "‘She came abreast of the steamer, stood still, and faced us. Her long shadow fell to the water’s edge. Her face had a tragic and fierce aspect of wild sorrow and of dumb pain mingled with the fear of some struggling, half-shaped resolve. She stood looking at us without a stir, and like the wilderness itself, with an air of brooding over an inscrutable purpose. A whole minute passed, and then she made a step forward. There was a low jingle, a glint of yellow metal, a sway of fringed draperies, and she stopped as if her heart had failed her. The young fellow by my side growled. The pilgrims murmured at my back. She looked at us all as if her life had depended upon the unswerving steadiness of her glance. Suddenly she opened her bared arms and threw them up rigid above her head, as though in an uncontrollable desire to touch the sky, and at the same time the swift shadows darted out on the earth, swept around on the river, gathering the steamer into a shadowy embrace. A formidable silence hung over the scene.", "output": "“Ả đi đến ngang chỗ con tàu, đứng yên, đối diện chúng tôi. Bóng ả đổ dài đến mép nước. Gương mặt ả mang sắc diện ai oán và dữ dội của nỗi bi thương hoang dại và đau đớn tái tê hòa trộn cùng nỗi sợ hãi một quyết tâm đang vật lộn thành hình. Ả nhìn chúng tôi, bất động, giống như bản thân hoang dã, với vẻ đang ấp ủ một mục đích bí hiểm khó dò. Tròn một phút trôi qua, và ả bước lên một bước. Có tiếng leng keng khe khẽ, ánh vàng kim lấp lánh, bóng tua rua đong đua, rồi ả dừng lại như thể tim vừa ngừng đập. Gã trai ngồi cạnh tôi gầm gừ. Đám hành hương rì rầm sau lưng tôi. Ả nhìn tất cả chúng tôi, như thể sinh mệnh ả phụ thuộc vào vẻ trầm ổn khôn lay chuyển trong ánh mắt. Đột nhiên ả giang đôi tay trần và cứng nhắc giơ lên quá đầu, như trong một nỗi khát khao bất diệt muốn chạm trời, và cùng lúc những bóng đen mau lẹ vụt ra, tràn quanh bờ sông, vây lấy con tàu thành một vòng ôm u tối. Một sự im lặng ghê gớm bao phủ hiện trường." }, { "instruction": "Could you convert these sentences from English to Vietnamese for me?", "input": "‘At this moment I heard Kurtz’s deep voice behind the curtain: ‘Save me!—save the ivory, you mean. Don’t tell me. Save ME! Why, I’ve had to save you. You are interrupting my plans now. Sick! Sick! Not so sick as you would like to believe. Never mind. I’ll carry my ideas out yet—I will return. I’ll show you what can be done. You with your little peddling notions—you are interfering with me. I will return. I….’\n\n‘The manager came out. He did me the honour to take me under the arm and lead me aside. ‘He is very low, very low,’ he said. He considered it necessary to sigh, but neglected to be consistently sorrowful. ‘We have done all we could for him—haven’t we? But there is no disguising the fact, Mr. Kurtz has done more harm than good to the Company. He did not see the time was not ripe for vigorous action. Cautiously, cautiously—that’s my principle. We must be cautious yet. The district is closed to us for a time. Deplorable! Upon the whole, the trade will suffer. I don’t deny there is a remarkable quantity of ivory—mostly fossil. We must save it, at all events—but look how precarious the position is—and why? Because the method is unsound.’ ‘Do you,’ said I, looking at the shore, ‘call it ‘unsound method?‘ ‘Without doubt,’ he exclaimed hotly. ‘Don’t you?’ … ‘No method at all,’ I murmured after a while. ‘Exactly,’ he exulted. ‘I anticipated this. Shows a complete want of judgment. It is my duty to point it out in the proper quarter.’ ‘Oh,’ said I, ‘that fellow—what’s his name?—the brickmaker, will make a readable report for you.’ He appeared confounded for a moment. It seemed to me I had never breathed an atmosphere so vile, and I turned mentally to Kurtz for relief—positively for relief. ‘Nevertheless I think Mr. Kurtz is a remarkable man,’ I said with emphasis. He started, dropped on me a heavy glance, said very quietly, ‘he WAS,’ and turned his back on me. My hour of favour was over; I found myself lumped along with Kurtz as a partisan of methods for which the time was not ripe: I was unsound! Ah! but it was something to have at least a choice of nightmares.", "output": "“Đúng lúc này, giọng nói trầm đục của Kurtz vẳng ra từ sau rèm: ‘Cứu ta! - Ý mi là, cứu chỗ ngà. Chớ bảo ta. Cứu ta! Vì sao ta phải cứu mi. Mi đang phá hoại kế hoạch của ta. Ốm! Ốm! Không nặng như mi mơ tưởng đâu. Khỏi cần. Kiểu gì ta cũng thực hiện dự định của mình - ta sẽ trở lại. Ta sẽ cho mi thấy ta làm được gì. Mi và mớ ý tưởng hèn mọn của mi - mi đang cản trở ta. Ta sẽ trở lại. Ta..,’\n\n“Viên giám đốc trở ra. Gã dành cho tôi vinh dự là nắm tay tôi dẫn ra một bên. ‘Ông ấy rất yếu, yếu lắm,’ gã nói. Gã thấy cần phải thở dài, nhưng chẳng buồn duy trì bộ mặt ưu phiền. ‘Chúng ta đã làm tất cả những gì có thể vì ông ấy - phải không? Tuy nhiên không thể phủ nhận thực tế, những gì ông ấy làm cho Công ty hại nhiều hơn lợi. Ông ấy không nhận ra, hiện nay chưa chín muồi để hành động quyết liệt. Thận trọng, thận trọng - đó là nguyên tắc của tôi. Chúng ta vẫn phải thận trọng. Nơi này sẽ đóng cửa với ta một thời gian. Tệ hại! về tổng thể giao thương sẽ bị ảnh hưởng. Tôi không phủ nhận ta có một lượng ngà đáng kể - chủ yếu là hóa thạch. Bất luận thế nào ta cũng phải tẩu tán chúng - nhưng nhìn xem tình hình đang bất trắc thế nào - và tại sao? Vì phương pháp ấy không ổn,’ ‘Ông vừa bảo,’ tôi đáp, mắt nhìn ra biển, ‘phương pháp ấy “không ổn?” ‘ ‘Dĩ nhiên,’ gã gay gắt. ‘Anh không thấy thế à?’ ‘Chẳng ra phương pháp gì sất,’ lát sau tôi lẩm bẩm. ‘Chính xác,’ gã tự mãn đáp. ‘Tôi đã dự báo trước vụ này. Chứng tỏ hoàn toàn thiếu óc xét đoán. Tôi có trách nhiệm phải chỉ ra điều đó với bộ phận liên quan.’ ‘À,’ tôi nói, ‘anh bạn - tên gã là gì nhỉ? - thợ gạch, sẽ chế cho ông một bản báo cáo xuôi tai,’ Gã sững ra mất một lúc. Dường như chưa bao giờ tôi hít thở một bầu không khí ô trọc đến thế, và tôi tìm tới Kurtz về tinh thần để giải tỏa - giải tỏa thực sự. ‘Nói gì thì nói, tôi nghĩ ông Kurtz là một con người xuất chúng,’ tôi nói với vẻ nhấn mạnh. Gã giật nảy, ném vào tôi một ánh nhìn nặng nề lạnh lẽo, nói rất khẽ, ‘đúng thế,’ đoạn xoay lưng bỏ đi. Giờ phút được sủng ái của tôi đã dứt; tôi thấy mình bị vứt chung với Kurtz vào rọ những phần tử theo đuổi phương pháp chưa chín muồi về mặt thời gian: tôi thuộc loại không ổn! À! Nhưng ít ra có quyền lựa chọn cơn ác mộng nào cũng là cái hay." }, { "instruction": "I'm looking for a Vietnamese translation of these sentences.", "input": "‘I had turned to the wilderness really, not to Mr. Kurtz, who, I was ready to admit, was as good as buried. And for a moment it seemed to me as if I also were buried in a vast grave full of unspeakable secrets. I felt an intolerable weight oppressing my breast, the smell of the damp earth, the unseen presence of victorious corruption, the darkness of an impenetrable night…. The Russian tapped me on the shoulder. I heard him mumbling and stammering something about ‘brother seaman—couldn’t conceal— knowledge of matters that would affect Mr. Kurtz’s reputation.’ I waited. For him evidently Mr. Kurtz was not in his grave; I suspect that for him Mr. Kurtz was one of the immortals. ‘Well!’ said I at last, ‘speak out. As it happens, I am Mr. Kurtz’s friend—in a way.’", "output": "“Tôi quả thực đã tìm đến với hoang dã, chứ không phải Kurtz, người, tôi phải thừa nhận, không khác gì đã nằm dưới đất. Và trong một giây phút tôi cảm thấy dường như mình cũng bị vùi trong một nấm mồ vĩ đại, chứa đầy những bí mật không thể nói ra. Tôi cảm thấy một áp lực khôn kham đè nặng trên ngực, mùi ẩm mốc từ đất, sự hiện diện vô hình của sa đọa đang chiến thắng, sự tối tăm của một đêm trường vô phương thấu hiểu... Gã người Nga gõ vào vai tôi. Tôi thấy gã lúng búng lắp bắp gì đó về ‘hải hồ huynh đệ’ - không thể giấu giếm - biết những việc ảnh hưởng đến uy tín của ông Kurtz.’ Tôi chờ đợi. Rõ ràng, với gã ông Kurtz không nằm dưới mộ; và tôi ngờ rằng với gã ông Kurtz đã bước vào hàng ngũ bất tử. ‘À!’ rốt cục tôi thốt, ‘nói đi. Trên thực tế, tôi cũng là bạn của ông Kurtz - theo một cách nào đó.’" }, { "instruction": "Can you help me with the translation of these English sentences to Vietnamese?", "input": "‘He stated with a good deal of formality that had we not been ‘of the same profession,’ he would have kept the matter to himself without regard to consequences. ‘He suspected there was an active ill-will towards him on the part of these white men that—’ ‘You are right,’ I said, remembering a certain conversation I had overheard. ‘The manager thinks you ought to be hanged.’ He showed a concern at this intelligence which amused me at first. ‘I had better get out of the way quietly,’ he said earnestly. ‘I can do no more for Kurtz now, and they would soon find some excuse. What’s to stop them? There’s a military post three hundred miles from here.’ ‘Well, upon my word,’ said I, ‘perhaps you had better go if you have any friends amongst the savages near by.’ ‘Plenty,’ he said. ‘They are simple people—and I want nothing, you know.’ He stood biting his lip, then: ‘I don’t want any harm to happen to these whites here, but of course I was thinking of Mr. Kurtz’s reputation—but you are a brother seaman and—’ ‘All right,’ said I, after a time. ‘Mr. Kurtz’s reputation is safe with me.’ I did not know how truly I spoke.", "output": "“Gã tuyên bố với vẻ khá trịnh trọng rằng nếu chúng tôi không là ‘đồng đạo,’ thì gã sẽ giữ kín việc này bất chấp hậu quả. ‘Ông ấy ngờ rằng đám da trắng kia có ác ý đối với mình...’ ‘Không sai,’ tôi nói, nhớ lại một đoạn hội thoại mình nghe lỏm được. ‘Viên giám đốc cho rằng cậu đáng bị treo cổ,’ Gã thể hiện một vẻ quan ngại ban đầu làm tôi buồn cười trước thông tin tình báo này. ‘Tốt nhất tôi nên lẳng lặng rút êm,’ gã thật thà nói. ‘Giờ tôi chẳng giúp gì được ông ấy nữa, và chúng sẽ sớm tìm ra lý do. Có gì ngăn chúng đâu? Cách đây ba trăm dặm mới có một trại lính đồn trú,’ ‘À, nói thật lòng,’ tôi đáp, ‘có lẽ cậu nên đi, nếu có bạn bè thổ dân ở gần đây,’ ‘Nhiều lắm,’ gã đáp. ‘Họ vốn chất phác - mà tôi thì chẳng cần gì, ông biết đấy.’ Gã đứng cắn môi rồi nói, ‘Tôi không muốn tai ương gì xảy ra với đám da trắng này, nhưng dĩ nhiên tôi lo nghĩ về thanh danh của ông Kurtz - nhưng chúng ta là hải hồ huynh đệ và..,’ ‘Được rồi,’ một lúc sau tôi thốt. ‘Thanh danh của ông Kurtz sẽ an toàn với tôi,’ Tôi không biết mình nói thật đến đâu." }, { "instruction": "Please transform these English sentences into Vietnamese.", "input": "‘He informed me, lowering his voice, that it was Kurtz who had ordered the attack to be made on the steamer. ‘He hated sometimes the idea of being taken away—and then again…. But I don’t understand these matters. I am a simple man. He thought it would scare you away—that you would give it up, thinking him dead. I could not stop him. Oh, I had an awful time of it this last month.’ ‘Very well,’ I said. ‘He is all right now.’ ‘Ye-e-es,’ he muttered, not very convinced apparently. ‘Thanks,’ said I; ‘I shall keep my eyes open.’ ‘But quiet-eh?’ he urged anxiously. ‘It would be awful for his reputation if anybody here—’ I promised a complete discretion with great gravity. ‘I have a canoe and three black fellows waiting not very far. I am off. Could you give me a few Martini-Henry cartridges?’ I could, and did, with proper secrecy. He helped himself, with a wink at me, to a handful of my tobacco. ‘Between sailors—you know—good English tobacco.’ At the door of the pilot-house he turned round—‘I say, haven’t you a pair of shoes you could spare?’ He raised one leg. ‘Look.’ The soles were tied with knotted strings sandalwise under his bare feet. I rooted out an old pair, at which he looked with admiration before tucking it under his left arm. One of his pockets (bright red) was bulging with cartridges, from the other (dark blue) peeped ‘Towson’s Inquiry,’ etc., etc. He seemed to think himself excellently well equipped for a renewed encounter with the wilderness. ‘Ah! I’ll never, never meet such a man again. You ought to have heard him recite poetry— his own, too, it was, he told me. Poetry!’ He rolled his eyes at the recollection of these delights. ‘Oh, he enlarged my mind!’ ‘Good-bye,’ said I. He shook hands and vanished in the night. Sometimes I ask myself whether I had ever really seen him— whether it was possible to meet such a phenomenon! …", "output": "“Gã hạ giọng tiết lộ với tôi rằng, chính Kurtz ra lệnh tấn công con tàu. ‘Đôi khi ông ấy căm ghét việc sẽ bị đưa đi - thế rồi lại... Nhưng tôi không hiểu mấy chuyện này. Tôi là người đơn giản. Ông ấy nghĩ thế sẽ khiến các ông sợ mà lui - làm các ông bỏ cuộc, tưởng ông ấy chết rồi. Tôi can ông ấy mà không được. Ôi, cả tháng cuối cùng này tôi đến khổ vì chuyện đó,’ ‘Không sao,’ tôi nói. ‘Giờ thì ông ấy ổn rồi,’ ‘Vâââng,’ gã lúng búng, rõ ràng là chưa tin lắm. ‘Cảm ơn,’ tôi nói; ‘tôi sẽ thận trọng,’ ‘Nhưng nhớ kín đáo, nhé?’ gã lo lắng dặn. ‘Thanh danh ông ấy sẽ tổn hại nặng nề nếu ai đó ở đây..,’ Tôi hết sức trịnh trọng hứa sẽ tuyệt đối giữ bí mật. ‘Có thuyền độc mộc và ba gã da đen chờ tôi cách đây không xa. Tôi chuồn đây. Ông để cho tôi một ít đạn Martini-Henry được chứ?’ Tôi có thể, và làm vậy với sự bí mật thích hợp. Gã nháy mắt với tôi và tự lấy một nắm thuốc lá đầy. ‘Chỗ thủy thủ với nhau - hả - thuốc lá Anh là nhất.’ Đến ngưỡng cửa buồng lái gã ngoảnh lại - ‘À này, ông có dư đôi giày nào không?’ Gã giơ một chân lên. ‘Này’ Đế giày được buộc thắt nút kiểu xăng-đan dưới bàn chân trần. Tôi móc ra một đôi giày cũ, được gã nhìn với ánh mắt kính ngưỡng trước khi kẹp vào nách. Một túi gã (đỏ tươi) căng phồng những đạn, túi kia (xanh sẫm) lấp ló cuốn sách của Towson, vân vân và vân vân. Xem ra gã thấy mình được trang bị hết sức hoàn hảo cho cuộc tái ngộ với hoang dã. ‘Hỡi ơi! Sẽ chẳng bao giờ tôi gặp được người như thế nữa. Ông phải nghe ông ấy ngâm thơ - thơ của ông ấy sáng tác nữa, ông ấy bảo tôi thế. Thơ!’ Mắt gã long lanh khi hồi tưởng những niềm hứng khởi ấy. ‘Ôi, ông ấy đã mở mang đầu óc tôi!’ ‘Tạm biệt,’ tôi nói. Gã bắt tay tôi và biến mất vào màn đêm. Đôi khi tôi tự hỏi có thật mình đã gặp gã không - có thể nào gặp được một kỳ nhân như thế!…" }, { "instruction": "I need these sentences to be translated into Vietnamese.", "input": "‘As soon as I got on the bank I saw a trail—a broad trail through the grass. I remember the exultation with which I said to myself, ‘He can’t walk—he is crawling on all-fours—I’ve got him.’ The grass was wet with dew. I strode rapidly with clenched fists. I fancy I had some vague notion of falling upon him and giving him a drubbing. I don’t know. I had some imbecile thoughts. The knitting old woman with the cat obtruded herself upon my memory as a most improper person to be sitting at the other end of such an affair. I saw a row of pilgrims squirting lead in the air out of Winchesters held to the hip. I thought I would never get back to the steamer, and imagined myself living alone and unarmed in the woods to an advanced age. Such silly things—you know. And I remember I confounded the beat of the drum with the beating of my heart, and was pleased at its calm regularity.\n\n‘I kept to the track though—then stopped to listen. The night was very clear; a dark blue space, sparkling with dew and starlight, in which black things stood very still. I thought I could see a kind of motion ahead of me. I was strangely cocksure of everything that night. I actually left the track and ran in a wide semicircle (I verily believe chuckling to myself) so as to get in front of that stir, of that motion I had seen—if indeed I had seen anything. I was circumventing Kurtz as though it had been a boyish game.\n\n‘I came upon him, and, if he had not heard me coming, I would have fallen over him, too, but he got up in time. He rose, unsteady, long, pale, indistinct, like a vapour exhaled by the earth, and swayed slightly, misty and silent before me; while at my back the fires loomed between the trees, and the murmur of many voices issued from the forest. I had cut him off cleverly; but when actually confronting him I seemed to come to my senses, I saw the danger in its right proportion. It was by no means over yet. Suppose he began to shout? Though he could hardly stand, there was still plenty of vigour in his voice. ‘Go away—hide yourself,’ he said, in that profound tone. It was very awful. I glanced back. We were within thirty yards from the nearest fire. A black figure stood up, strode on long black legs, waving long black arms, across the glow. It had horns—antelope horns, I think—on its head. Some sorcerer, some witch-man, no doubt: it looked fiendlike enough. ‘Do you know what you are doing?’ I whispered. ‘Perfectly,’ he answered, raising his voice for that single word: it sounded to me far off and yet loud, like a hail through a speaking-trumpet. ‘If he makes a row we are lost,’ I thought to myself. This clearly was not a case for fisticuffs, even apart from the very natural aversion I had to beat that Shadow—this wandering and tormented thing. ‘You will be lost,’ I said—’utterly lost.’ One gets sometimes such a flash of inspiration, you know. I did say the right thing, though indeed he could not have been more irretrievably lost than he was at this very moment, when the foundations of our intimacy were being laid—to endure— to endure—even to the end—even beyond.", "output": "“Vừa lên bờ tôi đã thấy dấu vết - một vệt rộng hằn trên cỏ. Tôi nhớ cảm giác hưng phấn lúc đó khi tự nhủ, ‘Y không đi nổi, phải bò bằng bốn chân - mình tóm được y rồi,’ Mặt cỏ đẫm sương. Tôi siết chặt nắm tay và sải bước. Tôi nghĩ mình mơ hồ có ý tưởng nhảy xổ lên người y và đấm đá túi bụi. Tôi không biết. Tôi có vài suy nghĩ dớ dẩn. Bà già ôm mèo ngồi đan bỗng hiện ra trong ký ức tôi như đối tượng phi lý nhất là khởi đầu cho chuyện này. Tôi thấy một toán hành hương cầm súng trường Winchester ngang hông và vãi đạn trong không khí. Tôi tưởng mình sẽ không bao giờ trở lại tàu nữa, và hình dung ra mình sống đơn độc và không vũ khí giữa rừng đến già. Rặt chuyện ngớ ngẩn ấy mà. Và tôi nhớ mình còn hòa nhịp trống với nhịp tim của bản thân, và mãn nguyện trước sự đều đặn bình thản của nó.\n\n“Dầu vậy, tôi vẫn theo dấu y - đoạn dừng lại nghe ngóng. Đêm rất trong; một vùng không gian lam sẫm, lấp lánh sương và ánh sao, nơi những sự vật màu đen cực kỳ bất động. Tôi cảm giác phía trước thấp thoáng có chuyển động. Đêm hôm ấy tôi tự tin một cách kỳ lạ về mọi thứ. Tôi quả đã từ bỏ dấu vết kia rồi đánh một cung tròn rộng (tôi nghĩ mình còn cười thầm) để chặn đầu cái loạt soạt, cái chuyển động khi nãy tôi nhìn thấy - nếu quả tình tôi có thấy gì đó. Tôi đang đi vòng để úp sọt Kurtz như thể một trò chơi con nít.\n\n“Tôi chặn đầu y, và nếu y không nghe thấy tôi thì chắc tôi đã nhào lên y, song y kịp thời đứng dậy. Y vươn người lên, lảo đảo, dài, nhợt nhạt và lờ mờ, như một luồng hơi mặt đất phả ra, rồi lắc lư nhè nhẹ, chập chờn, im lặng trước mặt tôi; trong khi sau lưng tôi ánh lửa bập bùng giữa rặng cây, tiếng rì rầm của nhiều giọng nói phát ra từ trong rừng. Tôi đã ranh mãnh chặn lối y; nhưng khi phải thật sự đối mặt với y thì sự tỉnh táo dường như trở lại, giúp tôi nhận thức được tầm vóc đích thực của hiểm nguy. Nó chưa hề tan biến. Ngộ nhỡ y hét lên? Dù gắng gượng lắm mới đứng nổi, giọng y vẫn còn rất nhiều khí lực. ‘Chạy mau - nấp đi,’ y thốt, bằng giọng điệu âm trầm ấy. Nghe thật kinh khủng. Tôi liếc ra sau. Chúng tôi chỉ cách đống lửa gần nhất chưa đầy ba mươi mét. Một bóng đen đứng dậy, sải cặp chân đen dài và vung vẩy đôi tay đen dài hước ánh lửa. Trên đầu nó có sừng - linh dương, tôi đoán vậy. Một loại phù thủy, thầy mo gì đó, hẳn rồi: nhìn nó chẳng khác yêu ma. ‘Ông có biết mình đang làm gì không?’ Tôi thì thầm. ‘Hoàn toàn,’ y đáp, lên giọng chỉ vì một chữ ấy: bên tai tôi nó xa xăm nhưng vang dội, như tiếng chào của một cây kèn trumpet biết nói. Y mà làm ầm lên là tất cả đi tong, tôi tự nhủ. Rõ ràng đây không phải tình huống để tay đấm chân đá, dẫu rằng ngoài nỗi ác cảm rất đỗi tự nhiên thì tôi buộc phải đánh bại Cái bóng ấy - vật thể lang thang và thống khổ ấy. ‘Ông sẽ lạc lối,’ tôi nói - Tạc lối hoàn toàn.’ Đôi khi trong óc ta lóe lên một tia sáng tạo như thế. Tôi đã đánh trúng huyệt, mặc dù thực tế y chẳng thể nào lạc lối một cách bất khả vãn hồi hơn chính thời điểm này, khi nền tảng cho sự thân thiết giữa chúng tôi đang được thiết lập - để trường tồn - để trường tồn - đến thời khắc cuối cùng - thậm chí xa hơn nữa.\n\n" }, { "instruction": "I'm in need of a Vietnamese translation for these English sentences.", "input": "‘His was an impenetrable darkness. I looked at him as you peer down at a man who is lying at the bottom of a precipice where the sun never shines. But I had not much time to give him, because I was helping the engine-driver to take to pieces the leaky cylinders, to straighten a bent connecting-rod, and in other such matters. I lived in an infernal mess of rust, filings, nuts, bolts, spanners, hammers, ratchet-drills—things I abominate, because I don’t get on with them. I tended the little forge we fortunately had aboard; I toiled wearily in a wretched scrap-heap—unless I had the shakes too bad to stand.", "output": "“Y là một vùng tăm tối vô phương thấu hiểu. Tôi nhìn y như ta nhìn xuống kẻ nằm dưới đáy vực sâu chưa bao giờ thấy bóng mặt trời. Nhưng tôi chẳng có nhiều thời gian dành cho y, bởi tôi phải giúp tay thợ máy tháo những xy-lanh bị rò, nắn thẳng một cần trục bị cong, và nhiều việc tương tự. Tôi như sống trong hỏa ngục bề bộn của rỉ sắt, mạt giũa, ốc, vít, cờ lê, búa, khoan tay - những thứ tôi chán ghét, bởi tôi không sao quen với chúng được. Tôi phải trông cái lò nhỏ mà con tàu may mắn có được; tôi nhọc nhằn cặm cụi giữa một đống phế liệu thảm hại - trừ những lúc run lẩy bẩy không chịu nổi." }, { "instruction": "Can you provide me with the Vietnamese equivalents of these English sentences?", "input": "‘The horror! The horror!’\n‘I blew the candle out and left the cabin. The pilgrims were dining in the mess-room, and I took my place opposite the manager, who lifted his eyes to give me a questioning glance, which I successfully ignored. He leaned back, serene, with that peculiar smile of his sealing the unexpressed depths of his meanness. A continuous shower of small flies streamed upon the lamp, upon the cloth, upon our hands and faces. Suddenly the manager’s boy put his insolent black head in the doorway, and said in a tone of scathing contempt:", "output": "“ ‘Nỗi kinh hoàng! Nỗi kinh hoàng!’\n\n“Tôi thổi nến và rời buồng lái. Bọn hành hương đang dùng bữa tối dưới phòng ăn, và tôi ngồi xuống đối diện tay giám đốc, kẻ nhướng mắt ném cho tôi một ánh nhìn dò hỏi mà tôi đã lờ đi thành công. Gã ngả người ra sau, bình thản, với nụ cười quái dị phong kín chiều sâu bất lộ của sự đê tiện ở gã. Một trận mưa ruồi bỗng tràn lên ngọn đèn, lên khăn bàn, lên tay, lên mặt chúng tôi. Đột nhiên tên hầu của tay giám đốc thò cái đầu mọi đen lấc cấc vào cửa, và nói với giọng khinh miệt cay độc…" }, { "instruction": "I need help with translating these English sentences into Vietnamese.", "input": "‘Thus I was left at last with a slim packet of letters and the girl’s portrait. She struck me as beautiful— I mean she had a beautiful expression. I know that the sunlight ycan be made to lie, too, yet one felt that no manipulation of light and pose could have conveyed the delicate shade of truthfulness upon those features. She seemed ready to listen without mental reservation, without suspicion, without a thought for herself. I concluded I would go and give her back her portrait and those letters myself. Curiosity? Yes; and also some other feeling perhaps. All that had been Kurtz’s had passed out of my hands: his soul, his body, his station, his plans, his ivory, his career. There remained only his memory and his Intended— and I wanted to give that up, too, to the past, in a way— to surrender personally all that remained of him with me to that oblivion which is the last word of our common fate. I don’t defend myself. I had no clear perception of what it was I really wanted. Perhaps it was an impulse of unconscious loyalty, or the fulfilment of one of those ironic necessities that lurk in the facts of human existence. I don’t know. I can’t tell. But I went.", "output": "“Vậy là cuối cùng chỉ còn lại một tập thư mỏng và chân dung cô gái. Ấn tượng của nàng với tôi là đẹp - ý tôi là trong hình nàng có một biểu cảm đẹp. Tôi biết, nhiếp ảnh có thể là ánh trăng lừa dối, nhưng có lẽ không sự sắp đặt ánh sáng hay tư thế nào có thể truyền tải được sắc thái vi tế của sự chân thành trên những đường nét ấy. Nàng tựa hồ sẵn sàng lắng nghe mà không chút ngại ngần, không gợn hoài nghi, chẳng mảy may nghĩ về bản thân. Tôi quyết định sẽ tự mình đến gặp và trao cho nàng tập thư. Tò mò? Phải; và có lẽ còn bởi một cảm xúc khác. Mọi thứ từng là Kurtz đều đã qua tay tôi: linh hồn y, thể xác y, trạm của y, kế hoạch của y; ngà của y, sự nghiệp của y. Chỉ còn lại ký ức của y và Hôn thê của y - và tôi muốn hoàn trả cả điều đó nữa, theo một cách nào đó, cho quá khứ - tự mình trao lại tất cả những gì còn lại của y cho sự lãng quên - từ cuối cùng trong số phận chung của chúng tôi. Tôi không định bào chữa. Khi ấy tôi không ý thức rõ ràng là mình thật sự muốn gì. Có lẽ đó là cơn bốc đồng của lòng trung thành vô thức, hay cố gắng thỏa mãn một trong những nhu cầu thiết yếu oái oăm ẩn dưới thực tại của sự hiện tồn của nhân loại. Tôi không biết. Tôi không rõ. Nhưng tôi đã đi." }, { "instruction": "Please assist me in translating these sentences into Vietnamese.", "input": "Marlow ceased, and sat apart, indistinct and silent, in the pose of a meditating Buddha. Nobody moved for a time. ‘We have lost the first of the ebb,’ said the Director suddenly. I raised my head. The offing was barred by a black bank of clouds, and the tranquil waterway leading to the uttermost ends of the earth flowed sombre under an overcast sky— seemed to lead into the heart of an immense darkness.", "output": "Marlow ngừng lời, đoạn ngồi tách ra, lờ mờ và lặng lẽ, trong tư thế Phật tọa thiền. Một lúc lâu không ai cử động. “Ta lỡ con nước đầu tiên rồi,” tay Giám đốc bỗng cất tiếng. Tôi ngẩng đầu lên. Biển khơi bị một bờ mây đen che khuất, và thủy lộ thanh bình dẫn tới những nẻo tận cùng Trái đất vẫn âm trầm chảy dưới vòm trời hôn ám - như dẫn vào trái tim của một vùng tăm tối khôn cùng." } ]